Astrology.vn - Quẻ Cấn (), Tự quái nói rằng: Chấn là động, các vật không thể động mãi, ngăn nó, cho nên tiếp đến quẻ Cấn. Cấn là ngăn, động tĩnh phải nhân nhau, động thì có tĩnh, tĩnh thì có động, các vật không lẽ động luôn, vì cậy quẻ Cấn mới nối quẻ Chấn. Cấn là đậu, không nói “đậu” mà nói Cấn, vì Cấn là tượng núi, có ý yên lặng rắn đặc, dùng chữ “đậu” không thể hết được. Kiền Khôn giao nhau ba lần mà thành quẻ Cấn, một khí Dương ở trên hai khí Âm, Dương là vật động mà tiến lên, đã đến bậc trên thì phải đậu lại. Âm là im lặng, trên đậu mà dưới im lặng, cho nên là Cấn, Thế thì với nghĩa “chứa đậu” khác nhau thế nào? Đáp rằng: chứa đậu là nghĩa ngăn chế mà chứa lại, lấy sức mà làm cho đậu; Cấn đậu là nghĩa yên ổn mà đậu, tức là “đậu” vào nơi chốn của nó – (Truyện của Trình Di).

 

:  .  .  .  .

Cấn tự quái: Vật bất khả dĩ chung động, chỉ chi, cố thụ chi dĩ Cấn, Cấn giả chỉ dã.

Sau quẻ Chấn tới quẻ Cấn. Chấn nghĩa là động, vật lý không lẽ cứ động hoài, động đã cực tất nhiên phải chỉ - ngừng. Bởi vì, tâm trí của người ta, hễ tĩnh thời không có ác cơ, mà động thời có ác cơ. (Quốc Văn Chu Dịch Diễn Giải - Sào Nam Phan Bội Châu). Tên quẻ: Cấn là Chỉ - ngăn bước, ngừng lại, trở ngại trùng trùng.

 

 .   .   .   .    .   .

Cấn. Cấn kỳ bối. Bất hoạch kỳ thân. Hành kỳ đình. Bất kiến kỳ nhân. Vô cữu.

Đậu thửa lưng, chẳng được thửa mình, đi thửa sân, chẳng thấy thửa người, không lỗi.

[Bản nghĩa của Chu Hy: Lời chiêm của nó là “ắt phải đậu ở đằng lưng, mà không có mình, đi ở sân mà không thấy người, mới là không lỗi”. Bởi vì thân thể là vật hay động, chỉ có cái lưng là đậu, đậu ở lưng là đậu ở chỗ đáng đậu, đậu chỗ đáng đậu thì sẽ không theo thân thể mà động, ấy là không có mình nữa. Như thế thì tuy đi ở sân thềm là chỗ có người mà cũng không trông thấy người. Bởi vì “đậu thửa lưng mà không trông thấy được mình”  là đậu mà đậu. Động tĩnh đều đậu vào nơi chốn mà lưng thì chủ về tĩnh, vì vậy mới không lỗi.]

 

 .  .   .   .   .   .   .     .   .   .     .  .       .   .

Thoán viết: Cấn. Chỉ dã. Thì chỉ tắc chỉ. Thì hành tắc hành. Động tĩnh bất thất kỳ thì. Kỳ đạo quang minh. Cấn kỳ chỉ. Chỉ kỳ sở dã. Thượng  hạ  địch ứng. Bất tương dữ dã. Thị dĩ bất hoạch kỳ thân. Hành kỳ đình. Bất kiến kỳ nhân. Vô cữu dã.

Lời thoán nói rằng: Cấn là đậu. Lúc đáng đậu thì đậu, lúc đáng đi thì đi. Động tĩnh không lỗi thửa thì thửa đạo sáng tỏ. Đậu thửa đậu là đậu thửa chốn vậy. Trên dưới chọi ứng, chẳng cùng nhau vậy. Vì vậy chẳng thửa được mình, đi thửa sân chẳng thấy thửa người, không lỗi vậy.

 

 .   .  .   .

Tượng viết. Kiêm sơn. Cấn. Quân tử dĩ tư bất xuất kỳ vị.

Lời tượng nói rằng: Gồm núi là quẻ Cấn. Đấng quân tử coi đó mà nghĩ chẳng việc thửa ngôi.

Gồm cả hai trái núi là quẻ Cấn - ngăn cản. Người quân tử lấy đấy mà không ra ngoài địa vị của mình.

[Bản nghĩa của Chu Hy: Ngôi tức là phận mình ở. Muôn việc đều có nơi có chốn, hễ đúng nơi chốn thì là đậu yên. Hoặc thái quá, hoặc bất cập, đều là vượt ra ngoài ngôi.]

 

1. Hào Sơ Lục.

 .        .   .   .

Sơ Lục. Cấn kỳ chỉ. Vô cữu. Lợi vĩnh trinh.

Hào sáu đầu: Đậu thửa ngón chân, không lỗi, lợi về lâu dài chính bền.

Ngừng lại ngay từ chỗ ngón chân cái - hào sơ lúc đầu -  thì không lỗi gì, lợi ích về việc giữ chính bền mãi mãi. Ý hào: Có đường lối giữ đường ngay thẳng.

 

 .        .   .

Tượng viết: Cấn kỳ chỉ. Vị thất chính dã.

Lời tượng nói rằng: Đậu thửa ngón chân, chưa mất chính vậy.

 

2. Hào Lục nhị.

 .        .   .   .

Lục nhị. Cấn kỳ phỉ. Bất chủng kỳ tùy. Kỳ tâm bất duyệt.

Hào sáu hai: Đậu thửa bụng chân, chẳng cứu thửa theo, thửa lòng chẳng sướng.

Bị ngăn ở bắp chân mình, chứ không cứu được cái dở cứ phải theo người - hào 2 âm phải theo hào 3 dương - nên lòng chẳng hả hê. Ý hào: thành tựu được ở mình, nhưng chưa được ở người.

 

 .        .  退  .

Tượng viết: Bất chửng kỳ tùy. Vị thoái thính dã..

Lời tượng nói rằng: Chẳng cứu thửa theo, chứa lui nghe vậy.

 

3. Hào Cửu tam.

 .        .   .   .

Cửu tam. Cấn kỳ hạn. Liệt kỳ dần. Lệ huân tâm.

Hào chín ba: Đậu thửa hạn, xé thửa thăn, nguy hun lòng.

Bị ngăn ở bên hông, như bị chia xẻ ở giữa xương sống - hào 3 khó xử ở giữa trên và dưới, nguy đến cháy cả ruột. Ý hào: không đáng ngăn mà bị ngăn, mất hẳn thời cơ.

 

 .        .   .

Tượng viết : Cấn kỳ hạn. Nguy huân tâm dã.

Lời tượng nói rằng: Đậu thửa hạn, nguy hun lòng vậy.

 

4. Hào Lục tứ .

 .       .   .

Lục tứ. Cấn kỳ thân. Vô cữu.

Hào sáu tư: Đậu thửa mình, không lỗi.

Tự ngăn được thân mình, nên không lỗi - hào 4 được chính. Ý hào: Thời nên ngừng thì ngừng, không vọng động.

 

 .       .   .

Tượng viết: Cấn kỳ thân. Chỉ chư cung dã.

Lời tượng nói rằng: Đậu thửa mình, là đậu chưng mình vậy.

 

5. Hào Lục ngũ.

 .       .   .   .

Lục ngũ. Cấn kỳ phụ. Ngôn hữu tự. Hối vong.

Hào sáu năm: Đậu thửa mép, nói có thứ tự, ăn năn mất.

Biết ngừng ở mép mình, nói năng có thứ tự, khỏi ăn năn gì. Ý hào: dè dặt lời nói nên đỡ có lỗi.

 

 .       .   .

Tượng viết: Cấn kỳ phụ. Dĩ trung chính dã.

Lời tượng nói rằng: Đậu thửa mép, lấy giữa chính vậy

 

6. Hào Thượng Cửu.

 .   .  .

Thượng Cửu. Đôn Cấn. Cát.

Hào sáu trên: Dầy đậu, tốt.

Dày dặn về cách ngăn ngừa, tốt. Ý hào: ngừng lại ở mức chí thiện.

 

 .   .   

Tượng viết:  Đôn Cấn chi cát. Dĩ trung chính dã.

Lời tượng nói rằng: Đầy đậu mà tốt, vì dầy chót vậy.

 

Tags: [KinhDịch] [KinhDịchGiảnYếu] [DịchLý] [64Quẻ] [QuẻKép] [QuẻDịch]

Biên Soạn: Astrology.vn

  Dịch HọcKinh Dịch Giản Yếu - Astrology.vn - About us

This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

> KINH DỊCH GIẢN YẾU: QUẺ 51 - BÁT THUẦN CHẤN 易经 震為雷

> KINH DỊCH GIẢN YẾU: QUẺ 50 - HỎA PHONG ĐỈNH 易经 火風鼎

> KINH DỊCH GIẢN YẾU: QUẺ 49 - TRẠCH HỎA CÁCH 易经 澤火革

> KINH DỊCH GIẢN YẾU: QUẺ 48 - THỦY PHONG TỈNH 易经 水風井

> KINH DỊCH GIẢN YẾU: QUẺ 47 - TRẠCH THỦY KHỐN 易经 澤水困