Astrology.vn - Quẻ Lâm (臨). Tự quái nói rằng: Có việc mà sau mới có thể lớn, cho nên tiếp đến quẻ Lâm, Lâm tức là lớn. Cổ là việc, có việc thì có thể lớn, cho nên tiếp đến quẻ Lâm. Hai khí Dương lớn mà sắp thịnh đại, cho nên là Lâm. Nó là quẻ trên chằm có đất, đất ở trên chằm là bờ, giáp nhau với nước, tới gần với nước, cho nên là Lâm. Các vật ở gầm trời, gần sát với nhau, không gì bằng đất và nước, cho nên trên đất có nước là quẻ Tỵ, trên chằm có nước là quẻ Lâm. Lâm là “tới” dân, tới việc, những cái thửa tới đều là Lâm. Ở quẻ thì lấy về nghĩa “tự trên tới dưới” – (Truyện của Trình Di).
Sau quẻ Cổ tới quẻ Lâm. Cổ nghĩa là có công việc thì sau mới làm đến lớn được. Lâm nghĩa là lớn. Hễ người ta ở vào thì Lâm, chớ nên kiêu xa, phóng tứ, phải lo vun đắp chính đạo cho thiệt bền vững. (Quốc Văn Chu Dịch Diễn Giải - Sào Nam Phan Bội Châu). Tên quẻ: Lâm là Đại - lớn tức người trên đến với người dưới.
臨. 元,亨,利,貞。 至 于 八 月 有 凶。
Lâm. Nguyên hanh lợi trinh. Chí vu bát nguyệt hữu hung.
Quẻ Lâm, cả, hanh, lợi, trinh, đến chưng tám tháng, có hung.
[Truyện của Trình Di: Đây là nói về cái tài của quẻ. Đạo tới như tài quẻ này, thì có thể cả hanh mà chính. Hai khí dương đương lớn lên ở dưới, là lúc Dương đạo sắp thịnh, thánh nhân răn sẵn mà rằng: “khí dương tuy đương thịnh, đến tám tháng thì nó tiêu đi, ấy là có hung”. Đại để thánh nhân dăn dổ, ắt là tự lúc đương thịnh mà lo rằng suy, thì mới có thể ngăn ngừa sự quá đầy mà mưu tính cuộc lâu dài. Nếu để đã suy mới răn, thì không kịp nữa.]
彖 曰 : 臨,剛 浸 而 長。 說 而 順,剛 中 而 應,大 亨 以 正, 天 之 道 也。至 于 八 月 有 凶,消 不 久 也。
Thoán viết. Lâm. Cương tẩm nhi trưởng. Duyệt nhi thuận. Cương trung nhi ứng. Đại hanh dĩ chính. Thiên chi đạo dã. Chí vu bát nguyệt hữu hung. Tiêu bất cửu dã.
Lời thoán nói rằng: Quẻ Lâm, đức cứng dần dần lớn lên, đẹp lòng mà thuận, cứng giữa mà ứng, cả hanh và chính, đạo của trời vậy. Đến chưng tám tháng có hung, sự tiêu đi không lâu vậy.
[Bản nghĩa của Chu Hy: Câu đầu dùng thể quẻ để thích tên quẻ. Câu thứ hai dùng đức quẻ, thể quẻ để nói cái hay của quẻ. Đương lúc đức cứng lớn lên, lại có được cái hay đấy, cho nên lời chiêm của nó như câu thứ ba. Câu thứ tư ý nói vận trời như thế, nhưng đấng quân tử nên biết răn sợ.]
象 曰: 澤 上 有 地,臨 ﹔ 君 子 以 教 思 無 窮,容 保 民 無 疆。
Tượng viết. Trạch thượng hữu địa. Lâm. Quân tử dĩ giáo tư vô cùng. Dung bảo dân vô Cương.
Lời tượng nói rằng: Trên chằm có đất là quẻ Lâm, đấng quân tử coi đó mà tứ dậy không cùng, dong giữ dân không bờ.
Trên đầm có đất là quẻ Lâm. Người quân tử lấy đấy mà dạy dân biết suy nghĩ cùng tận, bao dung và bảo vệ dân không giới hạn.
[Bản nghĩa của Chu Hy: Đất tới chằm là trên tới dưới, hai điều đó đều là việc bậc trên tới bậc dưới. “Dậy không cùng” là quẻ Đoái, “chứa không bờ” là quẻ Khôn.]
1. Hào Sơ Cửu.
初 九 : 咸 臨,貞 吉。
Sơ Cửu. Hàm Lâm. Trinh cát.
Hào chín đầu: Đều tới, chính tốt.
Cảm thông mà tới, giữ chính thì tốt. Ý Hào: có đường lối hay đi đến với người nhỏ mọn.
[Truyện của Trình Di: Hàm nghĩa là cảm. Lúc khí Dương lớn lên phải cảm động với khí Âm, tức là hào Tư ứng với hào Đầu mà cảm với nó. Sự cảm đó, ví với quẻ khác càng trọng yếu hơn. Hào Tư ở ngôi gần vua, hào Đầu được ngôi chính, cảm ứng với hào Tư, ấy là kẻ vì chính đạo lại được người đương vị tin dùng, được thực hành chí của mình. Được lòng người trên mà thi hành chính đạo của mình, cho nên mới tốt.]
象 曰: 咸 臨 貞 吉,志 行 正 也。
Tượng viết. Hàm Lâm trinh cát. Chí hành chính dã.
Lời tượng nói rằng: Đều tới chính tốt, chí làm ở sự chính đính vậy.
[Truyện của Trình Di: Bảo là “trinh cát” vì chí của Hào nằm ở sự làm điều chính đính. Là hào chín ở ngôi dương, lại ứng với hào Tư là hào chính đính, đó là chí nó chính đính.]
2. Hào Cửu nhị.
九 二: 咸 臨,吉 無 不 利。
Cửu nhị. Hàm Lâm. Cát. Vô bất lợi.
Hào chín hai: Đều tới, tốt, không gì không lợi.
Cảm thông mà tới, tốt, không gì là chẳng ích lợi. Ý Hào: Bọn Âm - tiểu nhân, gần kề, đến với họ một cách thân thiện.
[Truyện của Trình Di: Hào hai là hào Dương đương lớn mà thịnh dần dần, cảm động với hào sáu Năm là một ông vua giữa thuận, giao nhau thân mật, cho nên được nó tin dùng, được thực hành chí mình, cho nên tới đâu cũng tốt, không gì không lợi. Tốt là sự đã rồi, như thế, cho nên được tốt. Không gì không lợi là sự sắp tới, trong việc thi thố, không gì không lợi.]
象 曰: 咸 臨,吉 無 不 利 ﹔ 未 順 命 也。
Tượng viết: Hàm Lâm cát vô bất lợi. Vị thuận mệnh dã.
Lời tượng nói rằng: Đều tới, tốt, không gì không lợi, chưa thuận mệnh vậy.
[Truyện của Trình Di: Hào chín Hai cảm ứng với hào Năm để tới kẻ dưới, đó là kẻ lấy đức cứng mạnh mà được mực trung, hết lòng thành cảm nhau, không phải thuận theo mệnh của người trên, cho nên tốt mà không gì không lợi.]
3. Hào Lục tam.
六 三. 甘 臨,無 攸 利。 既 憂 之,無 咎。
Lục tam. Cam Lâm. Vô du lợi. Ký ưu chi. Vô cữu.
Hào sáu ba: Ngọt tới, thửa không lợi, đã lo đó, không lỗi.
Ngọt ngào mà tới, cũng không ích lợi, đã biết lo rồi thì không lỗi gì. Ý Hào: ngọt ngào tới mà có điều răn giới đấy.
[Bản nghĩa của Chu Hy: Âm nhu không trung chính mà ở trên thể dưới, đó là Tượng “lấy sự ngọt ngon vui đẹp tới người”. Lời chiêm của nó vẫn là không cái gì lợi, nhưng nếu biết lo mà đổi, thì không có lỗi. Khuyên người dời sang đường thiện, thế là dạy đời sâu lắm.]
象 曰: 甘 臨,位 不 當 也。 既 憂 之,咎 不 長 也。
Tượng viết. Cam Lâm. Vị bất đáng dã. Ký ưu chi. Cữu bất trường dã.
Lời tượng nói rằng: Ngọt tới, ngôi không đáng vậy; đã lo đó, lỗi không dài vậy.
[Truyện của Trình Di: Người Âm nhu, ở chỗ không trung chính, nhằm trên thể dưới, lại cưỡi trên hai hào dương, đó là ở chỗ không đáng ngôi. Đã biết sợ mà lo, thì ắt miễn cưỡng tự đổi, cho nên sự lỗi không dài.]
4. Hào Lục tứ.
六 四 : 至 臨,無 咎。
Lục tứ. Chí Lâm. Vô cữu.
Hào sáu tư: Rất tới, không lỗi.
Tha thiết mà tới, không lỗi gì. Ý Hào: thành thực đối với người, bổ khuyết cho họ.
[Bản nghĩa của Chu Hy: Ở được đáng ngôi, phía dưới ứng nhau với hào chín Đầu, “tới” nhau rất mực, nên được không lỗi.]
象 曰: 至 臨 無 咎,位 當 也。
Tượng viết: Chí Lâm vô cữu. Vị đáng dã.
Lời tượng nói rằng: Rất tới không lỗi, ngôi đáng vậy.
[Truyện của Trình Di: Ở ngôi gần vua mà được dùng, lấy hào Âm ở ngôi Tư là được chỗ chính, ứng với hào Đầu là biết nhún với người hiền, sở dĩ không lỗi, vì ngôi nó đáng.]
5. Hào Lục ngũ.
六 五 : 知 臨,大 君 之 宜,吉。
Lục ngũ. Tri Lâm. Đại quân chi nghi. Cát.
Hào sáu năm: Khôn tới, sự nên của vua cả, tốt.
Do trí tuệ mà tới, đúng nghi thức bậc đại quân, tốt. Ý Hào: ở cho hết đạo của nguyên thủ, thong dong mà việc thành.
[Bản nghĩa của Chu Hy: Lấy đức mềm, ở chỗ giữa, bên dưới ứng nhau với hào chín Hai, không tự dùng mình mà dùng người đó là việc của bậc trí, mà là điều mà đấng vua cả nên làm, tức là đạo tốt.]
象 曰: 大 君 之 宜,行 中 之 謂 也。
Tượng viết: Đại quân chi nghi. Hành trung chi vị dã.
Lời tượng nói rằng: Sự nên của vua cả, nghĩa là làm theo đức giữa vậy.
[Truyện của Trình Di: Vua tôi hợp đạo là lấy khí loại tìm nhau. Hào Năm có đức giữa, cho nên có thể tin dùng người hiền có đức cứng giữa, được sự nên làm của vua cả, mà thành cái công “khôn tới”, là bởi làm theo đức giữa của mình. Ông vua với bậc hiền tài, nếu không phải đạo đồng đức, há có thể dùng.]
6. Hào Thượng Lục.
上 六 : 敦 臨,吉 無 咎。
Thượng Lục. Đôn Lâm. Cát. Vô cữu.
Hào sáu trên: Dầy tới, tốt, không lỗi.
Đầy đặn mà tới, tốt, không lỗi gì. Ý Hào: thân với người, rất đầy đặn
[Bản nghĩa của Chu Hy: Ở trên quẻ, đứng chót cuộc “tới”, dầy dốc về sự tới, đó là cái đạo tốt mà không lỗi, cho nên tượng và chiêm của nó như thế.]
象 曰: 敦 臨 之 吉,志 在 內 也。
Tượng viết: Đôn Lâm chi cát. Chí tại nội dã.
Lời tượng nói rằng: Dầy tới mà tốt, chí ở trong vậy.
[Truyện của Trình Di: Chí ở trong, là nó ứng với hào Đầu hào Hai, chí nó thuận theo kẻ cứng mà lại dầy dốc, đủ biết là tốt.]
Biên Soạn: Astrology.vn
Dịch Học - Kinh Dịch Giản Yếu - Astrology.vn - About us
This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.
> KINH DỊCH GIẢN YẾU: QUẺ 18 - SƠN PHONG CỔ 易经 山風蠱
> KINH DỊCH GIẢN YẾU: QUẺ 17 - TRẠCH LÔI TÙY 易经 澤雷隨
> KINH DỊCH GIẢN YẾU: QUẺ 16 - LÔI ĐỊA DỰ 易经 雷地豫
> KINH DỊCH GIẢN YẾU: QUẺ 15 - ĐỊA SƠN KHIÊM 易经 地山謙
> KINH DỊCH GIẢN YẾU: QUẺ 14 - HỎA THIÊN ĐẠI HỮU 易经 火天 大有