Astrology.vn - Quẻ Sư. Tự quái nói rằng: Đã kiện ắt có đông người nổi lên, cho nên tiếp đến quẻ Sư. Sư lữ dấy lên, bởi tại có sự tranh giành, cho nên quẻ Sư mới nối tiếp quẻ Tụng. Nó là quẻ Khôn trên Khảm dưới. Nói về hai thể, thì trong đất có nước, có nghĩa là cái tượng đông người tụ họp. Nói về nghĩa hai quẻ, thì trong hiểm ngoài thuận, đi đường hiểm bằng cách xuôi thuận, đó là nghĩa trẩy quân; nói về hào, thì một hào Dương làm chủ các hào Âm, tức là cái tượng tóm cả đông người. Quẻ Tỷ, một hào Dương làm chủ các hào Âm mà ở trên, là tượng ông vua; quẻ Sư, một hào Dương làm chủ các hào Âm mà ở dưới, là tượng Tướng Súy – (Truyện của Trình Di).
Sau quẻ Tụng đến quẻ Sư. Tụng nghĩa là tranh nhau, hễ tranh nhau tất nhiên có phe, phe tất nhiên có chúng khởi. Hễ tranh nhau tất nhiên liên hiệp số đông người lại làm một chúng. Sư nghĩa là chúng - cũng nghĩa là quân lính. (Quốc Văn Chu Dịch Diễn Giải - Sào Nam Phan Bội Châu). Tên quẻ: Sư là chúng (đám đông, quân đội) gian nan rồi thành công.
師: 貞,丈 人,吉. 無 咎。
Sư. Trinh. Trượng nhân, cát. Vô cữu.
Quân chính, bậc trượng nhân tốt, không lỗi.
[Truyện của Trình Di: Cái đạo quân gia, lấy sự chính đính làm gốc. Dấy quân động chúng, để làm độc hại thiên hạ, mà không dùng cách chính đính thì dân không theo, chẳng qua cưỡng bách mà xua họ đi mà thôi. Cho nên quân gia phải lấy chính đính làm chủ. Hành động tuy chính đính, nhưng bậc làm tướng phải là Trượng Nhân mới tốt mà không lỗi. Bởi vì, có người tốt mà có lỗi, có khi không lỗi mà không tốt. Tốt mà không lỗi mới là tận thiện. Trượng nhân là cách gọi các bậc tôn nghiêm, đem quân coi chúng, nếu không phải là kẻ mà mọi người tôn tin sợ phục, thì làm sao cho được lòng người vâng theo? Gọi là trượng nhân, bất tất phải là người vẫn ở ngôi cao quý, hễ mà tài mưu đức nghiệp đủ khiến mọi người sợ phục thì nhằm.]
師,眾 也,貞 正 也,能 以 眾 正,可 以 王 矣。剛 中 而 應,行 險 而 順,以 此 毒 天 下,而 民 從 之,吉 又 何 咎 矣。
Thoán viết: (1) Sư. Chúng dã. Trinh. Chính dã. Năng dĩ chúng chính. (2) Khả dĩ vương hĩ. Cương trung nhi ứng. Hành hiểm nhi thuận. Dữ thử độc thiên hạ nhi dân tòng chi. Cát. Hựu hà cữu hĩ.
Lời thoán nói rằng: (1) Sư là nhiều người, Trinh là chính, khiến được nhiều người chính đính, thì có thể làm nên nghiệp vương. (2) Cứng giữa mà có chính ứng, đi chỗ hiểm mà xuôi thuận, dùng cái đó để làm độc hại thiên hạ mà dân theo, tốt. Còn lỗi gì nữa?
[Truyện của Trình Di: (1) Khiến mọi người chính đính thì có thể trị được thiên hạ. Được lòng người phục theo mà về với mình, đạo “vương” có thế mà thôi. (2) Đây nói về hào Hai. Hào ấy là kẻ cứng, ngôi giữa mà được đạo trung, có ông vua hào sáu Năm làm chính ứng, tin dùng một cách chuyên nhất, dù đi đường hiểm mà cứ lấy sự xuôi thuận hành động, đó là nghĩa binh, tức là quân của đấng vương giả. Trên thuận, dưới hiểm là đi chỗ hiểm mà thuận. Lòng dân đã theo mình, tốt ắt là được, không lỗi là hợp với nghĩa, thì còn lỗi gì?]
象 曰. 地 中 有 水,師﹔ 君 子 以 容 民 畜 眾。
Tượng viết: Địa trung hữu thủy. Sư. Quân tử dĩ dung dân súc chúng.
Lời tượng nói rằng: Trong đất có nước là quẻ Sư, đấng quân tử coi đó mà dung dân nuôi quân.
Trong đất có nước là quẻ sư (dân chúng, quân đội). Người quân tử lấy đấy mà dung nuôi dân chúng. Nước vững nhờ có đất, binh mạnh nhờ có dân.
[Bản nghĩa của Chu Hy: Nước không thể ngoài đất, quân không thể ngoài dân, cho nên hễ nuôi được dân, thì có thể nuôi được quân.]
1. Hào Sơ Lục.
初 六. 師 出 以 律,否 臧 凶。
Sơ Lục. Sư xuất dĩ luật. Phủ tang hung.
Hào sáu đầu: Quân ra bằng luật, không khéo thì hung.
Ra quân phải giữ kỹ luật, nếu không rành, ắt xấu. Ý Hào: người hành quân phải rất thận trọng, không thể cẩu thả.
[Bản nghĩa của Chu Hy: “Luật” tức là phép, “phủ tang” nghĩa là không khéo. Họ Triều nói rằng: chữ “Phủ”, Tiên Nho nhiều người giải nghĩa là “Chẳng”. Hào này ở đầu quẻ, là lúc khởi đầu việc quân, cái đạo ra quân, nên cẩn thận lúc đầu, có luật thì tốt, không khéo thì hung, đó là lời răn kẻ xem nên cẩn thận lúc đầu mà phải giữ phép.]
象 曰: 師 出 以 律,失 律 凶 也。
Tượng viết: Sư xuất dĩ luật. Thất luật hung dã.
Lời tượng nói rằng: Quân ra bằng luật, mất luật hung vậy.
[Truyện của Trình Di: Quân ra nên có luật, mất luật thì hung, tuy may mà được, cũng là hung đạo.]
2. Hào Cửu nhị.
九 二. 在 師 中,吉 無 咎,王 三 錫 命。
Cửu nhị. Tại sư trung. Cát. Vô cửu. Vương tam tích mệnh.
Hào chín hai: Ở trong quân, vừa phải thì tốt, không lỗi, nhà vua ba lần cho mệnh.
Ở giữa đám quân, tốt, không lỗi gì. Vua (nhà nước) ba lần ban phát mệnh lệnh (tưởng thưởng). Ý Hào: điều binh khiển tướng giỏi, thành công.
[Truyện của Trình Di: Quẻ Sư, chỉ có hào chín Hai là một hào Dương được các hào Âm theo về; hào Năm ở ngôi vua, tức là chính ứng của nó; hào Hai là chủ đám quân, chuyên chế việc quân. Kẻ ở dưới mà chuyên chế công việc, ở trong quân thì được. Từ xưa, các vua sai tướng, công việc ở ngoài cửa buồng, được chuyên chế hết. Ở trong quân, chuyên chế mà được vừa phải, cho nên mới tốt mà không có lỗi. Bởi vì cậy thế mà chuyên chế thì trái với đạo kẻ dưới; mà không chuyên chế thì không có lẽ thành công, cho nên hễ được vừa phải thì tốt. Phàm cách trị quân, vừa uy nghiêm vừa ôn hòa thì tốt. Đã xử việc quân thật khéo, thì có thể thành công mà yên thiên hạ, cho nên nhà vua mới có sủng mệnh đến ba lần. Việc gì tới ba lần, tức là cực điểm.]
象 曰: 在 師 中 吉,承 天 寵 也。 王 三 錫 命,懷 萬 邦 也。
Tượng viết: Tại sư trung cát. Thừa thiên sủng dã. Vương tam tích mệnh. Hoài vạn bang dã.
Lời tượng nói rằng: Ở trong quân, vừa phải thì tốt, vâng sự yêu của trời vậy. nhà vua ba lần cho mệnh, làm cho muôn nước nhớ mến vậy.
[Truyện của Trình Di: Ở trong quân vừa phải thì tốt, là vì được sự yêu quý tin dùng của trời; trời chỉ về vua, kẻ làm tôi không được vua yêu và tin dùng, thì đâu có được chuyên quyền đánh dẹp mà có sự tốt lành về thành công? Nhà vua ba lần ban cho ân mệnh, khen sự thành công, là để làm cho muôn nước nhớ đến.]
3. Hào Lục tam.
六 三. 師 或 輿 尸,凶。
Lục tam. Sư hoặc dư thi. Hung.
Hào sáu ba: Quân hoặc khiêng thây, hung.
Ra quân mà xác chết chở đầy xe, xấu. Ý Hào: Khinh địch bại trận.
[Bản nghĩa của Chu Hy: “Dư thi” nghĩa là sự đồ thua rồi, khiêng thây mà về. Vì là hào Âm ở ngôi Dương, tài yếu chí cương, không trung không chính, mà phạm vào việc không phải phận mình. Cho nên tượng là Hung.]
象 曰: 師 或 輿 尸,大 無 功也。
Tượng viết: Sư hoặc dư thi. Đại vô công dã.
Lời tượng nói rằng: Quân hoặc khiêng thây, rất không công vậy.
[Truyện của Trình Di: Nương tựa giao phó cho hai ba người, sao thành công được, vì không chuyên nhất. Há chỉ không thành công mà thôi đâu, đó còn là cách rước lấy sự hung.]
4. Hào Lục tứ.
六 四. 師 左 次,無 咎。
Lục tứ. Sư tả thứ. Vô cữu.
Hào sáu tư: Quân lùi đóng, không lỗi.
Quân lui về phía sau, không lỗi. Ý Hào: cầu may mà thắng thì sẽ thất bại.
[Truyện của Trình Di: Quân tiến là vì hăng mạnh, hào Tư là kẻ yếu, ở ngôi Âm, không thể tiến lên mà thắng lợi được. Biết không thể tiến mà lui, cho nên lùi đóng. Cân nhắc nên chăng để tiến hoặc lui, thế là rất nên, cho nên không lỗi.]
象 曰: 左 次 無 咎,未 失 常 也。
Tượng viết: Tả thứ vô cữu. Vị thất thường dã.
Lời tượng nói rằng: Lùi đóng không lỗi, chưa mất lẽ thường vậy.
[Truyện của Trình Di: Cái phép hành binh, theo thời thế mà làm điều nên làm, đó là lẽ thường. Cho nên đóng quân lui xuống, chưa hẳn đã sai, như hào Tư lùi mà đóng, ấy là hợp với sự nên làm, cho nên không lỗi.]
5. Hào Lục ngũ.
六 四. 師 左 次,無 咎。
Lục ngũ. Điền hữu cầm. Lợi chấp ngôn. Vô cữu. Trưởng tử soái sư. Đệ tử dư thi. Trinh hung.
Hào sáu năm: Ruộng có chim, lợi cho sự có lời để nói. Con cả đem quân, con em khiêng thây, chinh cũng hung.
Ruộng có chim muông nên mới nói chuyện săn bắt, không lỗi gì. Con lớn cầm quân, nếu để con em thì xe chở đầy xác, dù chính cũng xấu (chim muông là giặc; con lớn là hào 2 đáng vị, con em là hào 4, hào 3). Ý Hào: Nghĩa dùng quân và đạo làm tướng
[Bản nghĩa của Chu Hy: Hào sáu Năm làm chủ việc dùng quân, mềm thuận mà ở giữa, tức là kẻ không gây ra mối binh đao, quân giặc tràn lấn đến mình, chẳng đừng được mà phải ứng địch, cho nên mới là cái tượng trong ruộng có chim, lợi về săn bắt mà không có lỗi. “Ngôn” là lời nói, trưởng tử là hào Hai; đệ tử là hào ba bốn. Mấy câu này răn kẻ xem, ủy nhiệm ai phải chuyên dốc về người ấy, nếu sai quân tử làm việc mà để tiểu nhân xen vào, thì kết quả là chúng khiêng thây mà về, cho nên, tuy chính đáng vẫn không khỏi hung.]
象 曰: 左 次 無 咎,未 失 常 也。
Tượng viết: Trưởng tử soái sư. Dĩ trung hành dã. Đệ tử dư thi. Xử bất đáng dã.
Lời tượng nói rằng: Con cả đem quân theo đạo giữa mà đi; con em khiêng thây, sai khiến không được xứng đáng vậy.
[Truyện của Trình Di: Con cả ý nói hào Hai, lấy đức trung chính hợp với người trên mà nhận trách nhiệm để đi. Nếu lại sai khiến kẻ khác, nhiều người chủ trương công việc, thì sai dùng không xứng đáng, hung là phải lắm.]
6. Hào Thượng Lục.
上 六 . 大 君 有 命,開 國 承 家,小 人 勿 用。
Thượng Lục. Đại quân hữu mệnh. Khai quốc thừa gia. Tiểu nhân vật dụng.
Hào sáu trên: Đấng đại quân có mệnh, mở nước vâng nhà, kẻ tiểu nhân chớ dùng.
Đại quân (nguyên thủ) có mệnh trời ra mở nước, nối nghiệp nhà, kẻ tiểu nhân chớ có dùng. Ý Hào: lập công danh đến tột mức, mà không lợi dụng vinh thăng.
[Truyện của Trình Di: Hào trên là cuối việc quân, công đã thành rồi, đấng đại quân đem tước mệnh mà thưởng kẻ có công. Mở nước là phong họ làm chư Hầu, vâng nhà là dùng họ là Công Khanh Đại Phu. Kẻ tiểu nhân cho dù có công cũng không thể dùng, cho nên răn rằng chớ dùng. Trong khi quân Lữ dấy lên, sự thành công không chỉ một lối, bất tất ai cũng là quân tử, cho nên răn rằng – “kẻ tiểu nhân có công cũng không nên dùng, thưởng chúng bằng những tước vị vàng lụa thì được, không thể để chúng có Nước Nhà mà làm chính sự.]
象 曰: 大 君 有 命,以 正 功 也;小 人 勿 用,必 亂 邦 也。
Tượng viết: Đại quân hữu mệnh. Dĩ chính công dã. Tiểu nhân vật dụng. Tất loạn bang dã.
Lời tượng nói rằng: Đấng đại quân có mệnh, để chính công vậy; kẻ tiểu nhân chớ dùng, ắt loạn nước vậy.
[Truyện của Trình Di: Đấng đại quân cầm quyền ân thưởng, để làm cho chính cái công quân lữ, đó là sau chót việc quân. Tuy là thưởng kẻ có công, nhưng với kẻ tiểu nhân thì không vì chúng có công mà dùng, dùng chúng ắt là loạn nước. Kẻ tiểu nhân cậy công mà làm loạn nước, từ xưa vẫn có.]
Biên Soạn: Astrology.vn
Dịch Học - Kinh Dịch Giản Yếu - Astrology.vn - About us
This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.
> KINH DỊCH GIẢN YẾU: QUẺ 06 - THIÊN THỦY TỤNG 易经 天水訟
> KINH DỊCH GIẢN YẾU: QUẺ 05 - THỦY THIÊN NHU 易经 水天需
> KINH DỊCH GIẢN YẾU: QUẺ 04 - SƠN THỦY MÔNG 易经 山水蒙
> KINH DỊCH GIẢN YẾU: QUẺ 03 - THỦY LÔI TRUÂN 易经 水雷屯
> KINH DỊCH GIẢN YẾU: QUẺ 02 - KHÔN VI ĐỊA - VĂN NGÔN - THOÁN TRUYỆN 易经 坤為地