Astrology.vn - Tự Quái nói rằng: có trời đất rồi sau muôn vật mới sinh. Đầy trong trời đất, chỉ có muôn vật, cho nên tiếp đến quẻ Truân; Truân là đầy, Truân là muôn vật mới sinh. Muôn vật mới sinh, uất kết chưa thông, thành ra đầy tắc ở trong trời đất; đến khi nó đã vọt tốt, thì ý đầy tắc mất rồi. Trời đất sinh ra muôn vật, quẻ Truân là tượng các vật mới sinh, cho nên nối sau hai quẻ Kiền Khôn.

 

Nói vể hai tượng, thì Mây Sấm nổi lên, đó là Âm Dương mới giao; nói về hai thể thì Chấn mới giao ở dưới, Khảm mới giao ở giữa, Âm Dương giao nhau mới thành Mây Sấm. Âm Dương mới giao, Mây Sấm ứng nhau mà chứa thành mưa, cho nên là Truân; nếu đã thành mưa thì là Giải rồi. Lại động ở trong, hiểm ở ngoài cũng là Truân, Âm Dương không giao nhau là Bĩ, Âm Dương mới giao nhau mà chưa Xướng là Truân. Về thì vận, thì đó là lúc thiên hạn gian truân, chưa được hanh thái. (Truyện của Trình Di)

Trên quẻ Truân là quẻ Kiền và Khôn, là có trời có đất rồi; có trời đất, vậy sau vạn vật mới sinh nở. Đây là khoảng giữa trời đất tất duy vạn vật. Vậy nên sau quẻ Kiền là quẻ Khôn và tiếp theo lấy quẻ Truân. Truân nghĩa là đầy. Truân nghĩa lúc vạn vật mới sinh ra. Vì lúc bắt đầu mới sinh ra còn chưa lấy gì làm hanh thái được. Nên lại có một nghĩa, Truân là khốn - nạn. (Quốc Văn Chu Dịch Diễn Giải - Sào Nam Phan Bội Châu).

Đây là quẻ thứ 3 trong Kinh Dịch. Tên quẻ: Truân là nan (khó khăn, nhưng rồi có cơ hội). Người quân tử phải sửa sang việc chính trị (ví như hệ thống các đường tơ để dệt thành vải trên khung cửi).

 

屯:元,亨,利,貞,勿用,有 往,利 侯。 

Truân. Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh. Vật dụng hữu du vãng. Lợi kiến hầu

Truân, đầu cả, hanh thông. Lợi tốt, chính bền, chớ dùng có thửa đi, lợi về dựng tước hầu.

[Truyện của Trình Di: Quẻ Truân có cách cả hanh, mà ở đó lợi vào chính bền. Không chính bền lấy gì để qua lúc truân? Lúc Truân chưa thể có thửa đi. Thiên hạ đương Truân, há rằng sức một người nào có thể làm cho qua được? Ắt phải rộng nhờ về sức giúp đỡ, cho nên lợi về dựng tước hầu.]

 

屯,剛 生,動 中,大 貞。 滿 盈,天 昧,宜 寧。

Truân cương nhu thủy giao nhi nạn sinh. Động hồ hiểm chung. Đại hanh trinh. Lôi vũ chi động mãn doanh. Thiên tạo thảo muội. Nghi kiến hầu nhi bất ninh.

Quẻ Truân, cứng mềm mới giao nhau mà nạn sinh, động ở trong chỗ hiểm, cả hanh trinh, sấm mưa động đến đầy rẫy. Vận trời bối rối, mờ tối, nên dựng tước hầu, mà chớ cho là yên.

[Truyện của Trình Di: Nói về hai tượng Mây Sấm, thì là mềm cứng mới giao nhau. Nói về hai thể Chấn Khảm, thì động ở trong chỗ hiểm. Cứng mềm mới giao nhau mà chưa thông xướng thì phải gian truân, cho nên nói là “nạn sinh”; lại “động trong chỗ hiểm” cũng là gian truân. Cái gọi là “cả hanh” và “trinh” tức là Sấm Mưa động đến đầy rẫy. Âm Dương mới giao nhau thì còn gian truân chưa thể thông xướng, tới khi tràn hòa lan khắp thì thì thành sấm mưa dầy rẫy trong khoảng trời đất, sinh vật mới được thỏa thuê, đó là Truân có cách cả Hanh. Sở dĩ có thể cả Hanh là do ở Trinh. Nếu không chính bền, thì làm sao ra khỏi cảnh Truân? Người ta ở vào thời Truân có cách làm cho cả Hanh cũng là do ở chính bền. Thiên tạo chỉ về thì vận, “thảo” là rối loạn không có chật tự, “muội” là mờ tối không sáng, gặp thì vận đó, nên gầy dựng kẻ giúp đỡ, thì có thể qua được cảnh Truân. Tuy dựng tước Hầu có thể giúp cho mình, nhưng mà cũng nên siêng năng lo sợ, không dám ở yên. Đó là lời răn của thánh nhân.]

 

: 云,雷,屯 . 綸。

Tượng viết:  Vân lôi. Truân. Quân tử dĩ kinh luân.

Lời tượng nói rằng: Mây Sấm là quẻ Truân, đấng quân tử coi đó mà sửa sang thiên hạ.

Mây sấm là quẻ Truân (rối ren, gian truân). Người quân tử phải sửa sang việc chính trị (ví như hệ thống các đường tơ để dệt thành vải trên khung cửi).

[Truyện của Trình Di: Quẻ Khảm không nói là mưa mà nói là Mây, tức là Mưa chưa thành. Chưa từng mưa cho nên là Truân. Đấng quân tử coi tượng quẻ Truân, sửa sang việc thiên hạ để qua lúc truân nan.]

 

1. Hào  Sơ Cửu.

九: , 貞,利 侯。

Sơ Cửu. Bàn hoàn. Lợi cư trinh. Lợi kiến hầu.

Hào chín đầu: Quanh co, lợi về chính bền, lợi về dựng tước hầu.

Dùng dằng. Lợi ở giữ điều chính. Lợi ở xây dựng Chư Hầu (nước nhỏ thuộc quyền nước lớn). Ý Hào: thời buổi khó khăn. Tiến thì làm việc dân việc nước. Lui thì giữ phận mình.

[Truyện của Trình Di: Hào đầu là hào Dương, ở dưới, tức là có tài cương minh, gặp thời Truân nan mà ở ngôi dưới. Chưa thể đi ngay cho qua cảnh Truân, nên phải quanh co. Đương buổi đầu hồi Truân, nếu không quanh co mà vội tiến lên, tất phạm vào nạn, cho nên phải ở một cách chính đính giữ cho bền chí. Đại phàm người ta ở cảnh Truân nan, ít kẻ giữ được chính đinh. Nếu không giữ được chính đính vững bền, thì sẽ trái nghĩa, qua sao được cảnh Truân? Ở đời Truân, đương bị gian nan ở dưới, nên có kẻ giúp, đó là cái đạo ở cảnh truân và qua cảnh truân, cho nên mới dùng nghĩa “dựng tước hầu”, tức là nói tìm người giúp vậy.]

 

曰: 桓,志 也。以 賤,大 也。

Tượng viết:  Tuy bàn hoàn. Chí hành chính dã. Dĩ quí hạ tiện. Đại đắc dân dã.

Tượng nói rằng: Dẫu quanh co, có chí làm sự chính đính vậy. Làm kẻ sang, chịu dưới kẻ hèn, cả được dân vậy.

[Truyện của Trình Di: Người hiền ở dưới, nếu thời chưa lợi, tuy phải quanh co chưa thể đi ngay để làm cho qua cảnh truân của đời, nhưng vẫn có chí làm qua cảnh truân, có tài làm qua cảnh truân, đó là chí ở sự làm chính đính. Hào chín lúc gặp truân nan, mà đến ở dưới Âm, Tức là tượng kẻ sang chịu dưới kẻ hèn. Đương hồi Truân, kẻ Âm nhu không thể giữ cho còn, có một người có tài Dương cương, chúng phải  theo về, thế mà lại biết tự xử một cách thấp kém, cho nên mới được lòng dân. Có người ngờ rằng: đương Truân ở dưới, còn sang gì nữa? Ôi, là cương minh, mà chịu ở dưới kẻ Âm nhu; là hạng có tài làm qua cảnh Truân, mà lại ở dưới một kẻ bất tài, thế là kẻ sang chịu dưới kẻ hèn. Huống chi Dương đối với Âm, vẫn là sang hơn kia mà.]

 

2. Hào  Lục nhị.

:     如,乘 如。匪 媾,  字,十 字。

Lục nhị: Truân như chiên như. Thừa mã ban như. Phỉ khấu hôn cấu. Nữ tử trinh bất tự. Thập niên nãi tự.

Hào sáu hai: Dường như quanh co vậy, đường cưỡi ngựa rẽ ra vậy. Chẳng phải giặc, dâu gia. Con gái trinh tiết không đặt tên chữ, mười năm mới đặt tên chữ.

Khốn đốn như (ư) Khó tiến như (ư) cưỡi ngựa dùng dằng như (ư) không phải kẻ cướp, mà là người muốn kết hôn với mình (đó là hào 1 dương ở liền dưới). Ý Hào: Tả trạng thái tiến lên thì sợ phiền lụy, nhưng theo thì có đường lối.

[Truyện của Trình Di: Là Âm nhu, ở thời truân nan, tuy có kẻ chính ứng ở trên (chỉ hào Năm Chín) mà bị bức vì hào đầu là hào Dương cương, nên phải quanh quanh co co. Cưỡi ngựa tức là muốn đi, muốn theo kẻ chính đính ứng nhau với mình mà lại rẽ ra không thể tiến lên. Hào hai gặp đời truân nan, tuy không thể tự giúp cho mình, mà nó ở giữa, được ngôi chính, có kẻ hưởng ứng ở trên, không mất đạo nghĩa. Nhưng nó bị bức về hào Đầu, Âm là cái mà dương vẫn tìm, Mềm là cái mà Cứng vẫn lấn, thể mềm đương lúc truân nan, vẫn khó tự giúp, lại bị Dương cương vẫn bức, nên mới là nạn, nếu không bị bức về giặc nạn thì nó sẽ đi mà tìm dâu gia, dâu gia tức là kẻ chính ứng trên kia rồi. Giặc là chỉ vào kẻ phi lý mà đến. Hào hai giữ nết trung chính, không cẩu thả hợp nhau với hào đầu, cho nên không sinh đẻ. Nếu cứ chính bền không thay đổi, cho tới mười năm, truân nan cực điểm, phải thông đạt, sẽ được kẻ chính ứng với mình mà sinh con nuôi con. Là hạng con gái âm nhu, mà giữ được chí tiết, lâu rồi cũng được thông đạt, huống chi là hạng quân tử giữ đạo mà không cong queo. Hào Đầu là người hiền minh cương chính mà lại là giặc để bức người ta, là sao? Đáp rằng: đây cứ theo nghĩa “hào hai là mềm gần cứng” mà không kể cái đức hào đầu ra sao. Sự dùng nghĩa của Kinh Dịch như thế.]

 

:     難,乘 也。 字,反 也。

Tượng viết:  Lục nhị chi nạn. Thừa cương dã. Thập niên nãi tự. Phản thường dã.

Lời tượng nói rằng: Cái nạn của Sáu Hai là thừa lên Dương cương, Mười năm mới đặt tên chữ, trở lại sự thường vậy.

[Truyện của Trình Di: Hào Sáu Hai ở vào thời Truân mà lại cưỡi lên Dương cương, bị kẻ Dương cương lấn bức, đó là cái nạn. Đến mười năm thì nạn đã lâu, ắt phải hanh thông, mới được trở lại sự thường mà hợp với kẻ chính ứng. Mười là tận cùng của số.]

 

3. Hào  Lục tam.

:      鹿 虞,惟 中,君 舍,往 吝。

Lục tam:  Tức lộc vô ngu. Duy nhập vu lâm trung. Quân tử cơ. Bất như xả. Vãng lận.

Hào sáu ba: Theo Hươu không có ngu nhân, chỉ vào trong rừng. Đấng quân tử biết cơ, không bằng bỏ đi thì hối tiếc.

Đuổi hươu mà không có người dẫn đường, thì chỉ đi sụp vào giữa rừng. Người quân tử biết cơ ấy, chi bằng bỏ đi, tiến nữa sẽ hối thẹn. Ý Hào: đừng đi liền, mua lấy khổ.

[Truyện của Trình Di: Hào sáu ba là hào Âm nhu ở ngôi cương, cái tài mềm yếu đã không thể làm yên sự truân nan, lại ở ngôi cương mà không chính giữa, thì phải động càn, nó chỉ tham về cái nó vẫn tìm. Đã không tự giúp cho mình lại không có ứng viện, thì sẽ đi đâu? Giống như theo Hươu mà không có ngu nhân (người dẫn đường). Những người vào nơi rừng núi, phải có ngu nhân đưa đường, nếu không có kẻ đưa đường, thì chỉ hăm vào rừng rậm mà thôi. Đấng quân tử nhìn thấy cơ vi của công việc, bất nhược bỏ đó đừng theo. Nếu đi thì chỉ mua lấy sự cùng khốn.]

 

曰:    鹿 虞,以 也。君 之,往 也。 

Tượng viết:  Tức lộc vô ngu. Dĩ tùng cầm dã. Quân tử xả chi. Vãng lận cùng dã.

Lời tượng nói rằng: Theo Hươu không có ngu nhân, vì theo mồi vậy. Đấng quân tử bỏ đó, là vì thì hối tiếc cùng khốn.

[Truyện của Trình Di: Việc không thể làm mà cứ động càn, vì theo ý muốn của mình. Không có ngu nhân mà đi theo Hươu, vì tham cái mồi. Đương thời truân nan, không thể động mà cứ động, Cũng như không có ngu nhân mà đi theo Hươu, là vì có lòng theo mồi. Quân tử thì thấy cơ mà bỏ không theo, nếu đi ắt phải có hối tiếc cùng khốn.]

 

4. Hào  Lục tứ.

:    如,求 媾,無

Lục tứ. Thừa mã ban như. Cầu hôn cấu. Vãng cát. Vô bất lợi.

Hào sáu tư: Cưỡi ngựa dường rẽ ra vậy, tìm dâu gia, đi thì tốt, không gì không lợi.

Cưỡi ngựa dùng dằng như (Không lên được với hào 5). Quay xuống cầu kết bạn (Với Hào 1 Dương) thì tốt, không làm gì là chẳng lợi. Ý Hào: đi cầu người hiền tài để ra tay cứu buổi gian truân, và được hài lòng.

[Truyện của Trình Di: Sáu Tư là hào mềm thuận, ở gần ngôi vua, ấy là tương đắc với người trên, mà tài không đủ làm qua cảnh truân, cho nên muốn tiến lại thôi, như người cưỡi ngựa rẽ ra. Mình đã không thể làm qua cảnh truân ở đời, nếu tìm người có thể giúp mình, có thể qua. Hào đầu là người hiền có đức Dương cương, tức là kẻ dâu gia chính ứng với mình, nếu tìm hạng dâu gia Dương cương ấy để đi cùng giúp ông vua Dương cương trung chính mà làm cho qua cảnh truân ở đời, thì tốt, mà không gì không lợi. Ở ngôi công khanh, tài mình không đủ làm qua cảnh truân của đời, nhưng biết những người hiền thân ở dưới mà dùng, thì làm gì không được.]

 

曰:   往,明 也。

Tượng viết: Cầu nhi vãng. Minh dã.

Lời tượng nói rằng: Tìm mà đi, sáng vậy.

[Truyện của Trình Di: Biết là mình không đủ tài, tìm người hiền để giúp cho mình, rồi mau mới đi, có thể nói là người sáng. Ở vào cái ngôi có thể làm được, mình không làm nổi, mà thôi, thì là một kẻ rất tối.]

 

5.  Hào  Cửu ngũ.

: 膏,小 吉,大 凶。

Cửu ngũ. Truân kỳ cao. Tiểu trinh cát. Đại trinh hung.

Hào chín năm: Gian truân thửa ơn huệ, nhỏ mà trinh thì thành, lớn mà trinh thì dữ.

Thời truân chuyên, kẹt cả đến sự ban ơn huệ (dù ngồi ở Hào tôn vị cũng không làm nổi). Chỉnh đốn việc nhỏ thì tốt, chỉnh đốn việc lớn thì xấu. Ý hào: Dù có đức cũng khó xem hết bên dưới, sự nghiệp không mở rộng được.

[Bản nghĩa của Chu Hy: Hào chín năm tuy là Dương cương, trung chính, ở ngôi tôn, nhưng đương thời truân, hãm trong chỗ hiểm, dù có hào Sáu Hai chính ứng mà có âm nhu tài yếu không đủ giúp việc; hào Chín Đầu lại được lòng dân ở dưới, chúng đều theo về. Hào Chín Năm tuy có ơn trạch, lại không thể ban ra; đó là cái tượng Truân về ơn trạch. Kẻ xem để xử việc nhỏ, thì cứ giữ đường chính đính thì có thể tốt; để xử việc lớn, tuy là chính đính vẫn không khỏi hung.]

 

曰: 膏,施 也。 

Tượng viết:  Truân kỳ cao. Thi vị quang dã.

Lời Tượng nói rằng: Truân thửa ơn huệ, ơn đức chưa sáng vậy.

[Truyện của Trình Di: Ơn trạch lan xuống, cho nên đức thì chưa sáng lớn. Đó là cảnh truân của đấng quân nhân vậy.] 

 

6. Hào Thượng Lục.

: 如,泣 如。

Thượng Lục. Thừa mã ban như. Khấp huyết liên như.

Hào sáu trên:  Cưỡi ngựa dường rẽ ra vậy, khóc ra máu đầm đìa vậy

Cưỡi ngựa dùng dằng, khóc ra máu chảy đầm đìa (thời cũng khổ). Ý Hào: Tiến lên thì chẳng biết đi đâu, lo sợ vô cùng.

[Truyện của Trình Di: Hào sáu là Âm nhu, nhằm cuối quẻ Truân, ở chỗ hiểm cực mà không có kẻ ứng viện, ở thì không yên, động thì không có chỗ đi, cưỡi ngựa muốn đi, lại phải rẽ ngang không tiến, Truân quá đỗi, đến nỗi khóc ra máu mắt đầm đìa, đó là Truân đến cùng cực. Nếu là Dương cương mà có kẻ giúp, thì khi truân đã cùng cực có thể qua được.

 

曰:泣 如,何

Tượng viết: Khấp huyết liên như. Hà khả trường dã.

Lời tượng nói rằng: Khóc ra máu đầm đìa vậy, sao có thể lâu được.

[Truyện của Trình Di: Truân nan cùng cực không biết làm gì, cho nên đến nỗi khóc ra máu mắt, điên bái như thế thì có thể dài lâu được ư? Quẻ tức là việc, hào tức là thời của việc, chia làm ba mà lại gấp lên hai lần, đủ để bao quát các lẽ. Theo đó mà suy cho rộng ra việc của thiên hạ hết rồi.]

 

Biên Soạn: Astrology.vn

  Dịch HọcKinh Dịch Giản Yếu - Astrology.vn - About us

This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

> KINH DỊCH GIẢN YẾU: QUẺ 01 - KIỀN VI THIÊN 易经 乾為天

> KINH DỊCH GIẢN YẾU: QUẺ 02 - KHÔN VI ĐỊA 易经 坤為地

> KINH DỊCH GIẢN YẾU: QUẺ 04 - SƠN THỦY MÔNG 易经 山水蒙

> KINH DỊCH GIẢN YẾU: QUẺ 05 - THỦY THIÊN NHU 易经 水天需

> KINH DỊCH GIẢN YẾU: QUẺ 02 - KHÔN VI ĐỊA - VĂN NGÔN - THOÁN TRUYỆN 易经 坤為地