Astrology.vn - KHÔN: Nguyên Hanh Lợi tẫn mã chi trinh. Nhất Dương gốc ở Kiền, nhất Âm gốc ở Khôn. Vì có đức Khôn, đức Kiền mới tạo thành được vạn vật. Do vậy Kiền Khôn đủ cả Tứ đức. (Quốc Văn Chu Dịch Diễn Giải - Sào Nam Phan Bội Châu). Cái thể lực của đất (dày, thuận, bao dung) tượng trưng cho đạo Khôn. Người quân tử lấy đấy mà lập đức cho dày để dung chở mọi vật.
Bát Thuần Khôn là quẻ thứ 2, sau quẻ Bát Thuần Kiền, cùng với quẻ Kiền thống lĩnh 64 quẻ của Kinh Dịch.
坤:元,亨,利 牝 馬 之 貞。君 子 有 攸 往,先 迷 后 得 主,利 西 南 得 朋,東 北 喪 朋。安 貞,吉。
Khôn. Nguyên hanh. Lợi tẫn mã chi trinh. Quân tử hữu du vãng. Tiên mê hậu đắc. Chủ lợi Tây Nam đắc bằng. Đông Bắc táng bằng. An trinh cát.
Quẻ Khôn: Đầu cả, hanh thông, lợi về nết trinh của ngựa cái. Quân tử có sự đi. Trước mê, sau được. Chủ về lợi. Phía Tây Nam được bạn, phía Đông Bắc mất bạn. Yên phận giữ nết Trinh thì tốt.
[Truyện của Trình Di: Khôn là quẻ đối nhau với Kiền, bốn đức tính giống nhau, mà về “trinh” thì khác nhau. Kiền lấy “chính bền” làm trinh, Khôn thì “mềm thuận” làm trinh. Ngựa cái là giống có đức mềm thuận mà đi khỏe, cho nên dùng tượng của nó, gọi là “nết trinh của ngựa cái”. Việc làm của đấng Quân tử mềm thuận mà lợi và trinh, đó là hợp với đức tính của Khôn. Âm phải theo Dương, ắt đợi “xướng” thì mới “họa”. Âm đi trước Dương tức là mê lẫn, phải ở sau Dương mới đúng lẽ thường. Chủ về lợi, nghĩa là lợi cho muôn vật đều chủ ở Khôn. Vì cuộc sinh thành đều là công của đất cả. Đạo làm bầy tôi cũng vậy, vua sai tôi làm, vất vả về làm việc là cái chức trách của bầy tôi. Tây Nam là phương Âm, Đông Bắc là phương Dương. Âm phải theo Dương, lìa bỏ bầy loại của nó mới có thể làm nên công cuộc hóa dục, mà được cái tốt trong việc giữ nết trinh. Nghĩa là đúng với lẽ thường thì yên, yên với lẽ thường thì trinh, cho nên mới tốt.]
彖 曰: 至 哉 坤 元,萬 物 資 生,乃 順 承 天。坤 厚 載 物,德 合 無 疆。含 弘 光 大,品 物 咸 亨。 牝 馬 地 類,行 地 無 疆,柔 順 利 貞。君 子 攸 行,先 迷 失 道,后 順 得 常。西 南 得 朋,乃 與 類 行﹔東 北 喪 朋,乃 終 有 慶。安 貞 之 吉,應 地 無 疆。
Thoán viết. (1) Chí tai Khôn nguyên. Vạn vật tư sinh. Nãi thuận thừa thiên. (2) Khôn hậu tải vật. Đức hợp vô cương. (3) Hàm hoằng quang đại. Phẩm vật hàm hanh. (4) Tẫn mã địa loại. Hành địa vô cương. Nhu thuận lợi trinh. Quân tử du hành. (5) Tiên mê thất Đạo. Hậu thuận đắc thường. Tây Nam đắc bằng. Nãi dữ loại hành. Đông bắc táng bằng. Nãi chung hữu khánh. (6) An trinh chi cát. Ứng địa vô cương.
Lời Thoán nói rằng: (1) Cùng tột thay cái đức đầu cả của Khôn. Muôn vật nhờ nó mà sinh ra, bèn thuận theo trời. (2) Sức đầy của Khôn, chở được các vật, đức nó hợp với đức không bờ. (3) Bao dung rộng rãi, sáng láng, lớn lao, các phẩm, các vật đều hanh thông. (4) Ngựa cái là loài của Đất, đi đất không bờ, mềm, thuận, lợi về nết trinh, đấng quân tử thửa làm. (5) Trước mê mất đường, sau thuận được như thường, Tây Nam được bạn, bèn đi với loài, Đông Bắc mất bạn, bèn chót có phúc. (6) Cái tốt của kẻ yên về nết trinh, ứng nhau với đức không bờ của Đất.
(1) Đây là dùng Địa Đạo tỏ rõ nghĩa của quẻ Khôn, mà đầu tiên nói về đức “nguyên”. “Chí” là cùng tột, ví với chữ “đại” nghĩa nó hơi hoãn hơn. “thủy” là nơi khở đầu của phần khí, “sinh” là khởi đầu của phần hình, “thuận theo trời” tức là thi hành đạo của Đất vậy - (Bản nghĩa của Chu Hy). (2) Cái đạo “nhờ đó mà sinh ra” cũng có thể gọi là lớn. Nhưng Kiền đã khen là lớn rồi, cho nên Khôn phải khen là cùng tột. Nghĩa chữ “chí” hoãn hơn, không thịnh bằng chữ “đại”. Thánh nhân với sự phân biệt tôn ti, cẩn thận nghiêm ngặt như thế. Thuận theo trời mà thi hành, để cho thành công, đức dầy của Khôn mang chở muôn vật, có thể sánh nhau với đức “không bờ” của Kiền – (Truyện của Trình Di). (3) Hàm hanh là nói về đức Hanh. Đức của Khôn hợp với đức không bờ của Kiền, là nói khôn sánh với Kiền - (Bản nghĩa của Chu Hy). (4) Dùng bốn chữ “hàm, hằng, quan, đại” để hình dung đạo Khôn, cũng như đức “cương, kiện, trung chính, thuần, túy” của Kiền vậy. Hàm là bao dung, Hoằng là rộng rãi, Quang là sáng láng, Đại là rộng dầy. Vì có bốn đức tính đấy cho nên mới vâng theo được công việc của trời, khiến cho các phẩm, các vật được hanh thông thỏa thuê. Dùng ngựa cái làm tượng của Khôn, vì nó mềm thuận mà đi khỏe, là loài của đất. “Đi đất không bờ” chỉ về đức mạnh - Kiền mạnh, Khôn thuận. Khôn cũng mạnh ư? Đáp rằng: không mạnh thì sao sánh bằng với Kiền? Chưa có bao giờ Kiền đi mà Khôn đỗ. Nó “động” thì cứng, nhưng với đức “mềm” vẫn không hại gì. Mềm thuận mà lợi về đức trinh là đức của Khôn, điều mà quân tử vẫn làm. Đó là đạo quân tử với đức Khôn – (Truyện của Trình Di). (5) Dương lớn, Âm nhỏ, Dương được kiêm Âm, Âm không được kiêm Dương, cho nên đức Khôn thường kém nửa Kiền. Đông Bắc tuy mất bạn, nhưng quay về Tây Nam thì chót cùng sẽ có phúc – (Bản Nghĩa của Chu Hy). (6) Yên mà lại Trinh, đó là đức của Đất – (Bản nghĩa của Chu Hy).
象 曰: 地 勢 坤,君 子 以 厚 德 載 物。
Tượng viết. Địa thế Khôn. Quân tử dĩ hậu đức tải vật.
Lời tượng nói rằng: Thế đất là quẻ Khôn, đấng quân tử coi đó mà dùng sức dày chở các vật.
Cái thể lực của trái đất (dày, thuận, bao dung) tượng trưng cho đạo Khôn. Người quân tử lấy đấy mà lập đức cho dày để dung chở mọi vật.
[Truyện của Trình Di: Đạo Khôn cũng lớn như Kiền, phi Thánh Nhân ai thế được nó? Đất dầy mà thế của nó xuôi nghiêng, cho nên lấy cái hình tượng xuôi thuận mà dầy đó mà nói “thế đất là quẻ Khôn”. Đấng quân tử coi cái hình tượng Khôn dầy mà đem cái đức thâm hậu chở các vật.]
1. Hào Sơ Lục.
初 六: 履 霜,堅 冰 至。
Sơ Lục. Lý sương kiên băng chí.
Hào sáu đầu: Xéo sương, váng rắn tới.
Đi trên sương mỏng, phải nghĩ ngay rằng trời lạnh, giá đông cũng sắp tới. (Thấy điều ác nhỏ, phải nghĩ rằng sẽ thành điều ác lớn). Ý hào: Khí âm mới sinh, nên dè dặt bước tiến.
[Truyện của Trình Di: Hào Âm gọi là sáu, tức là Âm thịnh, nếu nói đến tám thì Dương sinh rồi, không phải thuần thịnh nữa. Khí âm mới sinh ở dưới, hãy còn rất nhỏ, thánh nhân trong khi khí Âm mới sinh, vì nó sắp lớn, thì làm ngay lời răn. Khí Âm mới đọng là sương, xéo chân lên sương, phải biết khí Âm dần dần thịnh lên, ắt sẽ đến lúc kết thành váng rắn. Cũng như tiểu nhân lúc đầu tuy rất nhỏ, không thể để cho nó lớn, nó lớn thì sẽ đến lúc nó thịnh.]
象 曰: 履 霜 堅 冰,陰 始 凝 也。 馴 致 其 道,至 堅 冰 也。
Tượng viết. Lý sương kiên băng. Âm thủy ngưng dã. Tuần trí kỳ Đạo. Chí kiên băng dã.
Lời tượng nói rằng: Xéo sương, váng rắn, là Âm mới đọng, dần đến thửa đạo, sẽ đến là váng rắn.
[Truyện của Trình Di: khí Âm mới đọng là sương, nó thịnh thì đến váng rắn, tiểu nhân tuy nhỏ, nó lớn thì sẽ dần dần tới thịnh, cho nên phải răn từ đầu.]
2. Hào Lục nhị.
六 二 : 直,方,大,不 習 無 不 利。
Lục nhị. Trực phương đại. Bất tập vô bất lợi.
Hào sáu hai: Thẳng, vuông, lớn, không phải tập, không gì là khôn lợi.
Có những đức tính thẳng, vuông lớn (Trung chính, tày tận, độ lượng) chẳng cần phải học tập kiểu cách gì mà không việc gì là không làm nên ích lợi, hợp Đạo lý - Hào tốt lắm). Ý Hào: đức lớn đến tuyệt mức.
[Bản nghĩa của Chu Hy: “Mềm, thuận, chính, bền” tức là đức thẳng của Khôn. Cái “hình” phú ra đã có nhất định, tức là đức vuông của khôn. Đức hợp với sức không bờ, tức là đức lớn của Khôn. Hào sáu hai mềm thuận mà trung chính, lại được đạo Khôn một cách thuần túy, cho nên đức tính của nó trong thẳng ngoài vuông mà lại có thịnh lớn, không cần học tập mà không có gì không lợi. Kẻ xem nếu có những đức như thế, thì lời chiêm sẽ là như thế.]
象 曰: 六 二 之 動,直 以 方 也。不 習 無 不 利,地 道 光 也。
Tượng viết. Lục nhị chi động. Trực dĩ phương dã. Bất tập vô bất lợi. Địa Đạo quang dã.
Lời Tượng nói rằng: Sự động của hào sáu hai, thẳng và vuông vậy; không tập, không gì không lợi, đạo Đất tỏ vậy.
[Truyện của Trình Di: Theo trời mà động thì chỉ có thẳng và vuông mà thôi. Thẳng vuông thì là lớn rồi. Cái nghĩa thẳng vuông, sức lớn vô cùng. Đạo đất sáng tỏ, công nó cứ xuôi mà thành, há đợi phải tập sau mới lợi?]
3. Hào Lục tam.
六 三: 含 章 可 貞。 或 從 王 事,無 成 有 終。
Lục tam. Hàm chương khả trinh. Hoặc tòng vương sự. Vô thành hữu chung.
Hào sáu ba: Ngậm văn vẻ, có thể chính; hoặc theo đuổi việc nhà vua, không cậy công? Thì được tốt lành về sau.
Hàm súc điều tốt đẹp thì có thể bền được. Hoặc đi theo việc nhà Vua (việc nhà nước) không cần thành công lấy cho mình thì sau có kết quả mỹ mãn. Ý Hào: Người có đức hàm súc điều hay vẻ đẹp.
[Truyện của Trình Di: Hào ba ở trên quẻ dưới, tức là được ngôi. Kẻ làm tôi, phải nên ngậm kín những cái tốt đẹp văn vẻ của mình, có điều gì hay phải trả về vua thì mới có thể như thường và được chính đính, trên không có người ghen ghét, dưới đúng với đạo mềm thuận. “Khả trinh” có nghĩa là có thể giữ gìn bằng cách chính bền, lại có thể bình thường lâu dài và không ăn năn xót tiếc. Hoặc có làm việc cho người trên, thì không dám nhận lấy sự thành công, chỉ phụng sự để giữ lúc chót mà thôi. Giữ chức trách để cho trọn việc, đó là đạo của kẻ bầy tôi.]
象 曰: 含 章 可 貞﹔ 以 時 發 也。 或 從 王 事,知 光 大 也。
Tượng viết. Hàm chương khả trinh. Dĩ thời phát dã. Hoặc tòng vương sự. Tri quang đại dã.
Lời tượng nói rằng: ngậm văn vẻ có thể chính để tùy theo thì mà phát động vậy. Hoặc có theo đuổi công việc nhà vua, trí khôn sáng tỏ lớn lao vậy.
[Truyện của Trình Di: Đấng phu tử sợ người ta giữ gìn văn vẻ mà không đạt nghĩa, cho nên lại theo chỗ đó mà giảng nghĩa ra. Ý nói: đạo của kẻ làm bề tôi ở ngôi dưới, không nên nhận là có công có điều hay; ắt phải ngậm tốt cái tốt của mình thì mới chính đính và mới có thể như Thường. Nhưng gặp việc gì mà nghĩa nên làm, thì phải tùy theo thời vận mà phát động, không nhận có công, thế thôi. Không để lỗi mất dịp “nên”, thế thì theo thời, chứ không phải nấp náu cuối cùng không làm. Nấp náu không làm thì không phải là kẻ tận trung. Lời tượng chỉ nói câu trên, lời giải thì gồm luôn cả đoạn dưới. Các quẻ đều thế. Hoặc là theo đuổi công việc nhà vua mà lại có thể không nhận có công, có cuộc sau chót, thì là trí khôn sáng láng lớn lao. Bởi vì trí sáng láng lớn lao, nên mới có thể ngậm kín. Những kẻ tối tăm nông nổi, có điều gì hay, chỉ sợ người ta không biết, há lại có thể ngậm được văn vẻ.]
4. Hào Lục tứ.
六 四 : 括 囊﹔無 咎,無 譽。
Lục tứ. Quát nang. Vô cữu vô dự.
Hào sáu tư: Thắt túi, không lỗi, không khen.
Thắt miệng túi lại, không lỗi, không tiếng khen. (Túi đây là túi trí khôn, như vẫn thường nói túi Kinh Luận túi Kế hoạch). Ý hào: nên tự thủ
[Truyện của Trình Di: Hào tư ở gần ngôi Năm, mà không có nghĩa tương đắc, ấy là cái lúc trên dưới tương lấp, tự xử bằng cách chính đáng cũng là cái chỗ nguy nghi. Nếu như giấu kín cái khôn của mình, như thể thắt chặt miệng túi, không cho hở ra, thì có thể được không lỗi; không thế, thì có hại. Đã giấu kín thì là không có tiếng khen.]
象 曰: 括 囊 無 咎,慎 不 害 也。
Tượng viết. Quát nang vô cữu. Thận bất hại dã.
Lời tượng nói rằng: Thắt túi không có lỗi, cẩn thận thì không có hại vậy.
[Truyện của Trình Di: Có thể cẩn thận như thế thì không có hại.]
5. Hào Lục ngũ.
六 五 : 黃 裳,元 吉。
Lục ngũ. Hoàng thường. Nguyên cát.
Hào sáu năm: Quần vàng, cả tốt.
Xiêm vàng tốt nhất. Ý Hào: Khen đức tính của người, vừa trung thực vừa thuận với thời thế, nên hưởng đại thiên đại cát.
[Truyện của Trình Di: Quẻ Khôn tuy là đạo quẻ làm tôi, nhưng hào Năm thực là ngôi kẻ làm vua, nên mới răng rằng “quần vàng, cả tốt”. Vàng là mầu trung chính, quần là đồ mặc ở phía dưới; giữ mực trung chính mà ở dưới, thì cả tốt, nghĩa là phải giữ phận vậy. Nguyên là “cả” mà “hay”, hào tượng chỉ nói nhất mực trung chính, ở ngôi dưới thì cả tốt, thì ở ngôi tôn, làm người trên thiên hạ, thì sự rất hung, có thể do đó mà biết. Người sau chưa đạt, nghĩa ấy đã bị tối mất, không thể không nói cho rõ. Năm là ngôi tôn, ở quẻ khác là hào sáu ngôi năm, hoặc là mềm thuận, hoặc là văn vẻ sáng láng, hoặc là mờ tối yếu ớt, ở quẻ khôn là ngôi tôn. Âm là đạo làm tôi, là đạo làm vợ, bề tôi mà ở ngôi tôn, thì là Hậu Nghệ, Vương Mãng, sự đó còn có thể nói, phận vợ mà ở ngôi tôn, thì là Nữ Oa, Vũ Thị thì đó là cái biến, không thể nói xiết, cho nên mới có lời răn “quần vàng”, mà không nói hết.]
象 曰: 黃 裳 元 吉,文 在 中 也。
Tượng viết. Hoàng thường nguyên cát. Văn tại trung dã.
Lời tượng nói: Quần vàng cả tốt, văn vẻ ở trong vậy.
[Truyện của Trình Di: văn vẻ của mầu vàng trung chính ở trong là không thái quá. Bên trong chứa vẻ rất đẹp mà ở bậc dưới, cho nên mới là cả tốt.]
6. Hào Thượng Lục.
上 六: 龍 戰 於 野,其 血 玄 黃。
Thượng Lục. Long chiến vu dã. Kỳ huyết huyền hoàng.
Hào sáu trên: Rồng đánh nhau ở đồng, máu nó xanh vàng.
Rồng chiến ngoài nội, máu chảy đen vàng. (Hào âm đến cùng cực nên xấu, Âm dương sát phạt nhau). Ý Hào: Âm cực, xảy ra tai họa.
[Truyện của Trình Di: Đó là Âm đi theo Dương, nhưng mà thịnh quá thì phải xảy ra tranh giành. Hào sáu đã cùng cực, lại tiến không thôi, thì ắt đánh nhau, cho nên nói rằng “đánh nhau ở đồng”. Đồng nghĩa là tiến đến ngoài. Đã chọi nhau thì đều bị thương, cho nên máu nó xanh vàng.]
象 曰: 龍 戰 於 野,其 道 窮 也。
Tượng viết. Long chiến vu dã. Kỳ Đạo cùng dã.
Lời tượng nói rằng: Rồng đánh nhau ở đồng, thửa đạo cùng dã.
[Truyện của Trình Di: Âm đã thịnh đến cùng cực, thì ắt đánh nhau mà bị thương.]
7. Hào Dụng Lục.
用 六: 利 永 貞。
Dụng Lục. Lợi vĩnh trinh.
Hào dùng sáu: Lợi về vĩnh viễn chính đính.
[Truyện của Trình Di: Hào dùng Sáu của quẻ Khôn cũng như hào dùng Chín của quẻ Kiền, tức là phép dụng Âm vây. Đạo Âm mềm mà khó được bình thườn. Cho nên cái phép dùng Sáu, lợi về thường thường chính bền.]
象 曰: 用 六 永 貞,以 大 終 也。
Tượng viết. Dụng Lục vĩnh trinh. Dĩ đại chung dã.
Lời tượng viết: Dùng Sáu vính viễn chính đính, vì lớn đến chót vậy.
[Truyện của Trình Di: Âm đã không đủ chính bền, thì không thể lâu dài đến cùng chót, cho nên cái đạo dùng Sáu, lợi về thịnh lớn lúc chót. Hễ lớn đến chót, thì mới vĩnh viễn chính đính.]
Biên Soạn: Astrology.vn
Dịch Học - Kinh Dịch Giản Yếu - Astrology.vn - About us
This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.
> KINH DỊCH GIẢN YẾU: QUẺ 02 - KHÔN VI ĐỊA - VĂN NGÔN - THOÁN TRUYỆN 易经 坤為地
> KINH DỊCH GIẢN YẾU: QUẺ 03 - THỦY LÔI TRUÂN 易经 水雷屯
> KINH DỊCH GIẢN YẾU: QUẺ 04 - SƠN THỦY MÔNG 易经 山水蒙