Astrology.vn - Quẻ Nhu. Tự quái nói rằng: Mông tức là đội, là vật còn non, vật còn non thì phải nuôi, cho nên tiếp đến quẻ Nhu. Nhu tức là việc ăn uống. Vật còn non nớt, phải đợi nuôi nấng mới lớn, mà cái cần dùng trong sự nuôi nấng các vật thì là sự ăn uống, cho nên nói rằng quẻ Nhu là việc ăn uống. Mây bay lên trời có tượng hun bốc nhuần ướt, ăn uống là để nhuần ích cho các loài vật, cho nên quẻ Nhu là việc ăn uống, nối tiếp với quẻ Mông. Đại ý, quẻ này có nghĩa chờ đợi. Cái tính Kiền mạnh nhất định phải tiến, vậy mà nó lại ở dưới quẻ Khảm là tượng chỗ hiểm, chỗ hiểm làm ngăn trở nó, cho nên cần phải chờ đợi rồi sau mới tiến - (Truyện của Trình Di).

 

Quẻ Nhu tiếp theo sau quẻ Mông. Bởi vì là giống vật thơ, vật còn thơ yếu tất cần phải nuôi mà nuôi cần nhất là ăn uống. Nhu có nghĩa là những việc cung cấp ăn uống. (Quốc Văn Chu Dịch Diễn Giải - Sào Nam Phan Bội Châu). Tên quẻ: Nhu là thuận (mềm dẻo, đợi chờ thời cơ).

 

 需:有 孚,光 亨,貞 吉。 川。

 Nhu. Hữu phu. Quang hanh. Trinh cát. Lợi thiệp đại xuyên.

Quẻ Nhu. Có đức tin, có đức sáng, hanh thông, chính bền, tốt. Lợi sang sông lớn.

[Truyện của Trình Di: Nhu là chờ đợi. Nói về hai thể, thì Kiền cứng mạnh, cần tiến lên, mà gặp chỗ hiểm, chưa thể tiến được, cho nên là nghĩa chờ đợi. Nói về tài quẻ, thì hào Năm ở ngôi vua, là chủ sự chờ đợi, có đức cứng mạnh, trung tín, mà có sự thành tín dầy đặc bên trong, tức là bên trong đầy đặc có đức tín, có đức tín thì sáng láng và có thể hanh thông, được trung chính và tốt. Dùng cái đó mà chờ đợi thì gì mà không qua; dù hiểm cũng không khó, cho nên mới lợi về việc sang sông lớn. Đại phàm “trinh cát”, có khi là đã Chính lại Tốt, có khi là có Chính mới Tốt, cần phải phân biệt.] 

 

, 也。剛 陷,其 矣。, 孚,光 亨,貞 吉。位 位,以 也。利 川,往 也。

Thoán viết: (1) Nhu. Tu dã. Hiểm tại tiền dã. Cương kiện nhi bất hãm. Kỳ nghĩa bất khốn cùng hỹ. (2) Nhu. Hữu phu quang hanh trinh cát. Vị hồ thiên vị. Dĩ chính trung dã. Lợi thiệp đại xuyên. Vãng hữu công dã.

Lời Thoán nói rằng: (1) Nhu tức là đợi, chỗ hiểm ở trước vậy. Cứng mạnh mà không bị hãm, nghĩa là nó không khốn cùng rồi. (2) Quẻ Nhu có đức tín, sáng láng, hanh thông, chính bền, tốt. Là vì ở vào ngôi trời, để chính giữa vậy. Lợi về sự sang sông lớn, đi thì có công vậy.

 

: 天,需﹔君 樂。

Tựng viết: Vân thượng ư thiên. Nhu. Quân tử dĩ ẩm thực yến lạc.

Lời tượng nói rằng: Mây lên trời là quẻ Nhu, đấng quân tử coi đó mà ăn uống yên vui.

Mây lên trên trời là quẻ Nhu (sắp mưa, hãy đợi) người quân tử lấy đấy cứ ăn uống an vui, tu dưỡng để chờ thời.

[Truyện của Trình Di: Hơi mây hun nấu mà bốc lên trời, phải đợi Âm Dương hòa hợp mới thành mưa, cho nên là nghĩa chờ đợi. Khí của Âm Dương cảm nhau mà chưa thành mưa, cũng như đấng quân tử còn nuôi tài đức chưa ti thố ra việc làm. Đấng quân tử coi tượng mây đương lên trời đợi để làm mưa, mà mang bọc đạo đức ở yên đợi thời, ăn uống để nuôi khí thể, yên vui để hòa tâm trí.]

 

1. Hào Sơ Cửu.

.      郊。 恆,無 咎。

Sơ Cửu. Nhu vu giao. Lợi dụng hằng. Vô cữu.

Hào chín đầu: Đợi ở đồng, lợi về dùng lẽ hằng. Không có lỗi.

Đợi ở nơi đất rộng xa. Giữ nết hằng thì có lợi, không lỗi gì. Ý Hào: Sự hiểm trở còn ở xa xôi, chưa nên biến đổi gì.

[Truyện của Trình Di: Kẻ đợi vì gặp chỗ hiểm, cho nên đợi rồi mới tiến, Hào đầu ở xa chỗ hiểm, cho nên là đợi ở đồng, đồng là nơi rộng rãi xa xôi, ở chỗ rộng rãi xa xôi, lại ở yên giữ đạo thường thì không lỗi. Nếu không ở yên giữ đạo thường mà nóng nẩy hành động, sa vào hiểm nạn, há lại có thể đợi chỗ ở xa mà không có lỗi được sao?]

 

曰:    郊,不 也。 恆,無 ﹔未 也。

Tượng viết:  Nhu vu giao. Bất phạm nạn hành dã. Lợi dụng hằng vô cữu. Vị thất thường dã.

Lời tượng viết: Đợi ở đồng, không phạm vào chỗ hiểm nạn vậy, lợi dùng đạo thường, không lỗi, vì chưa sai mất đạo thường vậy.

[Truyện của Trình Di: Ý nói, kẻ ở nơi rộng xa, không dám xông pha vào chỗ hiểm nạn mà đi. Dương là vật cứng mạnh mà chỉ tiến lên, hào Đầu hết đợi ở chỗ rộng xa, không dám xông pha vào chỗ hiểm nạn mà tiến, lại ở yên, không sai đạo thường, thì không có lỗi. Tuy là không tiến, nhưng là kẻ tâm chí thích động, thì không thể nào chịu yên đạo thường. Đấng quân tử chờ thời, phải nên yên tĩnh tự giữ, tâm trí tuy có chờ đợi, nhưng vẫn êm lặng như sẽ ở vậy đến trọn đời, thì mới có thể dùng được đạo thường.]

 

2.  Hào Cửu nhị.  

.      沙。 言,終 吉。

Cửu nhị. Nhu vu sa. Tiểu hữu ngôn. Chung cát.

Hào chín hai: Đợi ở bãi cát, hơi có điều tiếng, sau chót tốt.

Đợi ở nơi bãi cát. Có chút điều tiếng, sau mới tốt. Bãi cát là nơi gần quẻ Khảm hiểm trở. Ý Hào: Người có phận sự đã bắt đầu tiến bước, trước khó khăn, sau đi được.

[Truyện của Trình Di: Khảm là nước, nước gần thì có cát. Hào Hai cách chỗ hiểm đã dần dần hơi gần, cho nên là đợi ở cát. Dần dần gần với hiểm nạn tuy là chưa đến lo hãi, nhưng đã hơi có điều tiếng. Những lời thuộc về hoạn nạn cũng có lớn nhỏ khác nhau, nhỏ là hơi có điều tiếng, ấy là cái hại rất nhỏ về lời nói vậy. Hào Hai là tài cương minh, ở chỗ mềm yếu, giữ ngôi chính giữa, mà tự xử một cách rộng rãi, đó là kẻ khéo chờ đợi. tuy cách chỗ hiểm đã dần gần gần, mà còn chưa tới chỗ hiểm, cho nên chỉ hơi có hại về điều tiếng, mà không có hại lớn, sau rốt vẫn được lành tốt.]

 

曰:    沙,衍 也。雖 言,以 也。

Tượng viết.  Nhu vu sa. Diễn tại trung dã. Tuy tiểu hữu ngôn. Dĩ cát trung dã.

Lời tượng nói rằng: Đợi ở cát là rộng rãi ở trong vậy, tuy hơi có điều tiếng, về sau là được tốt vậy.

[Bản nghĩa của Chu Hy: “Diễn” tức là ý rộng rãi. Lấy cách ruộng rộng rãi ở giữa, đó là không vội tiến lên.]

 

3. Hào  Cửu tam.

.      泥,致 至。

Cửu tam. Nhu vu nê. Trí khấu chí.

Hào chín ba: Đợi ở bùn, dắt giặc đến.

Đợi ở chỗ bền. Tự vời giặc đến. Gần nơi hiểm trở rồi. Ý Hào: Bản thân đã đi tới gần hiểm trở, phải tự thủ.

[Truyện của Trình Di: Bùn là chỗ sát với nước, đã tiến sát đến chỗ hiểm, cho nên là dắt giặc nạn đến nơi. Hào Ba cứng mà không giữa, lại ở trên thể mạnh, có tượng biến động, cho nên mới là dắt giặc. Nếu không kính thận, thì sẽ phải nên táng bại.]

 

曰:    泥,災 也。 寇,敬 也。

Tượng viết. Nhu vu nê. Tai tại ngoại dã. Tự ngã trí khấu. Kính thận bất bại dã.

Lời tượng nói rằng: Đợi ở bùn, hại ở ngoài vậy. Tự mình dắt giặc, kính thận thì không thất bại vậy.

[Truyện của Trình Di: Hào ba bức sát vào chỗ hiểm nạn của thể trên, cho nên nói rằng: tại hại ở ngoài. Hào ba dắt giặc là tại tự mình tiến sát đến nơi, cho nên nói rằng: tự mình dắt giặc. Nếu biết kính thận, cân nhắc cơ nghi rồi mới tiến lên, thì không thất bại. Thời của quẻ Nhu là phải chờ đợi sẽ tiến, cốt xem thời thế mà động, không phải là răn người ta không được tiến, mà chỉ muốn khiến người ta chớ để lỗi mất cơ nghi mà thôi.]

 

4. Hào  Lục tứ.

.      血,出 穴。

Lục tứ. Nhu vu huyết. Xuất tự huyệt.

Hào sáu tư: Đợi chưng máu, ra tự hang.

Đợi ở nơi đổ máu, nhưng thoát khỏi hang hiểm. Ý Hào: nên biết tránh sự tai hại

[Bản nghĩa của Chu Hy: Máu là chỗ giết hại, hang là nơi hiểm hãm. Hào Tư giao với thể Khảm, ấy là vào chỗ hiểm rồi, cho nên là tượng “đợi chưng máu”. Nhưng nó Âm nhu “mềm”, được chính đạo, đợi mà không tiến, cho nên lại là tượng “ra tự hang”. Kẻ xem như thế, thì tùy ở chỗ bị hại, sau chót cũng ra được.]

 

曰:    血,順 也。 

Tượng viết. Nhu vu huyết. Thuận dĩ thính dã.

Lời tượng nói rằng: Đợi chưng máu, thuận mà nghe vậy.

 [Truyện của Trình Di: Hào Tư là âm nhu ở trong hiểm nạn, không thể cố ở, cho nên tự hang lui ra. Vì âm nhu, không tranh cạnh với đời, hễ không ở được thì lui, ấy là xuôi thuận để nghe theo thời, cho nên không đến nỗi hung.]

 

5.  Hào  Cửu ngũ.

.     食,貞 吉。

Cửu ngũ. Nhu vu tửu thực. Trinh cát.

Hào cửu Ngũ: Đợi chưng rượu cơm, chính tốt.

Đợi nơi cơm rượu, cứ an vui thư thái, giữ chính thì tốt. Ý Hào: giữ đạo lâu năm, việc thành tựu.

[Truyện của Trình Di: Là Dương cương, ở chính giữa, được chính vị ở ngôi trời, mà làm được hết đạo mình, dùng kiểu đấy mà đợi, thì đợi gì mà không được? Nên chỉ yên vui cơm rượu để đợi, mà cái chờ đợi ắt là phải được. Đã trinh chính mà cái chờ đợi lại được thỏa thuê, đáng gọi là tốt.]

 

象曰:    吉,以 也。

Tượng viết. Tửu thực trinh cát. Dĩ trung chính dã.

Lời tượng nói rằng: Rượu cơm chính tốt, vì trung chính vậy.

[Truyện của Trình Di: Đợi rượu cơm mà trinh và tốt. là vì hào Năm được  chỗ trung chính mà làm hết đạo của nó.]

 

6. Hào  Thượng Lục.

.     食,貞 吉。

Thượng Lục. Nhập vu huyệt. Hữu bất tốc chi khách tam nhân lai. Kính chi trung cát.

Hào sáu trên: Vào chung hang, có ba người khách không mời mà đến, kính trọng họ, sau chót tốt.

Vào nơi sang hiểm. Có ba người khác thong dong đi lại. Kính trọng họ, sau tốt. Ý Hào: đối với người tự dưng đến với mình mà càng kính trọng thì có thể thoát hiểm.

[Bản nghĩa của Chu Hy: Hào Âm, ở chỗ hiểm cực, không còn chờ đợi, có tượng bị hãm mà vào hang; dưới thì ứng nhau với hào chín Ba. Hào chín Ba và hai hào Dương ở dưới chờ đợi đã cực mà cùng tiến lên, là tượng ba người khách không mời mà đến. Hào Sáu Trên là bậc âm nhu, không thể chống nó mà phải xuôi thuận với nó, có tượng kính nó. Kẻ xem gặp chỗ hãm hiểm, nhưng với những người phi ý mà đến, cứ kính trọng mà đãi lại họ, thì sau được tốt.]

 

曰:   吉,以 也。 

Tượng viết. Bất tốc chi khách lai. Kính chi chung cát. Tuy bất đáng vị. Vị đại thất dã.

Lời tượng nói rằng: Khách không mời mà đến, kính họ, sau tốt, tuy không đáng ngôi, mà cũng chưa hỏng lắm vậy.

[Truyện của Trình Di: Không đáng ngôi, chỉ về Âm mà ở trên. Hào này là hào Sáu, ở ngôi Âm, đó là cái tượng yên ổn. Lại nói cho hết nghĩa, tỏ rằng: Âm nên ở dưới mà nó ở trên là không đáng ngôi. Nhưng biết kính thật tự xử, thì hào Dương không để lấn, sau vẫn được tốt, tuy không đáng ngôi, mà chưa đến nỗi hỏng lắm.]

 

Biên Soạn: Astrology.vn

  Dịch HọcKinh Dịch Giản Yếu - Astrology.vn - About us

This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

> KINH DỊCH GIẢN YẾU: QUẺ 04 - SƠN THỦY MÔNG 易经 山水蒙

> KINH DỊCH GIẢN YẾU: QUẺ 03 - THỦY LÔI TRUÂN 易经 水雷屯

> KINH DỊCH GIẢN YẾU: QUẺ 02 - KHÔN VI ĐỊA - VĂN NGÔN - THOÁN TRUYỆN 易经 坤為地

> KINH DỊCH GIẢN YẾU: QUẺ 02 - KHÔN VI ĐỊA 易经 坤為地

> KINH DỊCH GIẢN YẾU: QUẺ 01 - KIỀN VI THIÊN 易经 乾為天