Chỉ mục bài viết
Astrology.vn - Niêm tụng kệ do ngài Trần Thái Tông biên soạn gồm bốn mươi ba bài, mỗi bài chia làm ba phần: Cử, Niêm và Tụng. Cử là đề ra hay nêu lên một câu chuyện hoặc một câu trong kinh để giải thích. Niêm là rút gọn hay tóm tắt để nói rõ ý nghĩa của vấn đề. Tụng là giải bày thành một bài kệ bốn câu.
Dịch
1. Cử: Thế Tôn chưa rời Đâu-suất đã giáng vương cung, chưa ra thai mẹ độ người đã xong.
Niêm: Gươm báu chưa vung, tướng quân đã lộ.
Tụng: Không có hình hài, chửa rời quê,
Sớm tối đưa người qua bến mê.
Cất bước ngao du không xen cách,
Chẳng cần thuyền gỗ với phao bè.
2. Cử: Thế Tôn mới sanh, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất nói: Trên trời dưới đất chỉ ta tôn quí.
Niêm: Một áng mây trắng che cửa động,
Đàn chim về tổ thảy quên đường.
Tụng: Đạt-đa mới giáng Tịnh Vương cung,
Muốn hóa quần sanh tự hiển tung.
Bảy bước đi quanh chỉ trời đất,
Bao người con Phật mất gia phong.
3. Cử: Thế Tôn đưa cành hoa, Ca-diếp mặt rạng rỡ mỉm cười.
Niêm: Vén đứng lông mày để mắt xem,
Tiến lên suy nghĩ cách ngàn non.
Tụng: Thế Tôn nắm dựng một cành hoa,
Ca-diếp sáng nay được đến nhà.
Nếu bảo đây là truyền pháp yếu,
Về Nam xe Bắc lối càng xa.
4. Cử: Ngoại đạo hỏi Phật: Chẳng hỏi có lời, chẳng hỏi không lời?
Niêm: Trừ người quả thật con ta đó,
Ai kẻ bạo chân vào đường này.
Tụng: Lao quan khó buộc có ai tri,
Ngôn ngữ đều quên không chỗ y.
Chẳng phải trong đời con ngựa giỏi,
Do đâu bất chợt được tiện nghi.
5. Cử: Thế Tôn lên pháp tòa, Văn-thù bạch chúng rằng: Quán kỹ pháp Pháp vương, pháp Pháp vương như thế.
Niêm: Khảy khúc Dương Xuân đàn không dây,
Muôn năm ngàn thuở tiếng nào dứt.
Tụng: Tuy nói câu câu chẳng vết tỳ,
Giấu sừng, đuôi vẫn hiện như ri.
Nào giống một cành sáo không lỗ,
Vì anh thổi khúc Thái bình thi.
6. Cử: Vua nước Kế-tân cầm kiếm, bảo Tổ thứ hai mươi bốn (Sư Tử) rằng: Thầy được năm uẩn không chăng? Tổ đáp: Đã được. Vua hỏi: Lìa sanh tử chăng? Tổ đáp: Đã lìa. Vua hỏi: Có thể thí cái đầu cho tôi được không? Tổ đáp: Thân còn không phải của ta, huống nữa là đầu! Vua liền chém. Sữa trắng vọt ra, tay vua tự rơi.
Niêm: Đem đầu kề gươm bén,
Dường như chém gió xuân.
Tụng: Đao bén chém nước cùng xuy quang (thổi ánh sáng),
Việc này nên biết nào ngại gì.
Báo tin sáng ấy xa khói, sóng,
Ai biết riêng có nghĩ suy lành.
7. Cử: Đại sư Đạt-ma đến chùa Thiếu Lâm ở Lạc Dương, chín năm ngồi xây mặt vào vách.
Niêm: Để mắt xem, thôi ngủ gật.
Tụng: Chim Bằng vỗ cánh đến Nam Minh (Nam Hải),
Nối gót luống công muôn dặm trình.
Đêm trước chỉ tham vui yến tiệc,
Sáng nay bất giác say men nồng.
8. Cử: Nhị Tổ xin Sơ Tổ pháp an tâm. Sơ Tổ bảo: Đem tâm ra ta an cho ông. Nhị Tổ thưa: Con tìm tâm không thể được. Sơ Tổ bảo: Ta an tâm cho ông rồi.
Niêm: Em bé lên ba ôm trống giấy,
Ông già tám chục mặc áo cầu.
Tụng: Tâm đã không tâm nói với ai,
Người câm thức mộng mắt tròn xoe.
Lão tăng dối bảo an tâm đấy,
Cười ngất bàng quan chẳng tự hay.
9. Cử: Ngài Văn-thù thấy cô gái nhập định gần Phật, Ngài đến xuất định không được. Phật sai Bồ-tát Võng Minh đến xuất định được.
Niêm: Đứa con oan gia, tan gia phong ta.
Tụng: Đều cùng xuất định có sơ thân,
Định ấy nên là chửa chánh chân.
Nếu thật Hóa công không hậu bạc,
Xoay vần xuân đến khắp mọi phần.
10. Cử: Mã Tổ nói: Từ sau loạn Hồ ba mươi năm, chưa từng thiếu tương muối.
Niêm: Dù cho chẳng phạm mảy may,
Vẫn là cầm bánh dính tay.
Tụng: Trước kia làm bạn khách rượu chè,
Quán rượu thường nằm bên cạnh nhà.
Giả thử khoe khoang người lanh lợi,
Giữa đường mất áo chịu thôi mà.
11. Cử: Bá Trượng tái tham Mã Tổ, Mã Tổ hét một tiếng. Bá Trượng đại ngộ.
Niêm: Ngàn mũi nhọn, không bằng một nhát mai cùn.
Tụng: Ngày trước xe thơ chẳng cùng đồng,
Bốn bên dấy loạn tợ đàn ong.
Mã Tổ một phen vung kiếm bén,
Từ đây đường nẻo tin tức thông.
12. Cử: Quốc sư một ngày gọi thị giả ba lần. Thị giả ba lần dạ. Quốc sư nói: Ngỡ là ta phụ ngươi, ngược lại ngươi phụ ta.
Niêm: Như người uống nước, lạnh nóng tự biết.
Tụng: Dưới trên xướng họa xứng cùng hai,
Ý ấy so đâu biết ngắn dài.
Nhằm trước phơi bày gan ruột sạch,
Trong đây chỉ hứa tự mình hay.
13. Cử: Đại Qui nói: Câu có câu không như dây leo cây. Sơ Sơn hỏi: Cây ngã dây khô câu về chỗ nào? Đại Qui cười to ha hả!
Niêm: Nước chảy ắt về biển, trăng lặn chẳng rời trời.
Tụng: Sóng lặng yên rồi, trận gió thâu,
Uổng công hướng ngoại khổ tìm cầu.
Khối nghi cười nát thành trăm mảnh,
Từ đó mới phân đá với châu.
14. Cử: Bá Trượng bảo: Thế nào là pháp không vì người nói? Nam Tuyền đáp: Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật.
Niêm: Ngàn Thánh tìm dấu y chẳng được, toàn thân ẩn tại đại hư không.
Tụng: Trước đây công án không lệch nghiêng,
Đối diện xem xem hội chăng liền.
Trong ngôi Phật pháp mời chẳng ở,
Đêm về như trước ngủ bờ lau.
15. Cử: Nam Tuyền nói: Tâm chẳng phải Phật, trí chẳng phải đạo.
Niêm: Uống cạn huyền vi lý, đường về dưới trăng đi.
Tụng: Muôn tiếng trùng lặng, sao Đẩu dời,
Bầu trời trong suốt gợn mây vơi.
Nương tựa gậy lê lên gác ngắm,
Yên yên lặng lặng thật thảnh thơi.
16. Cử: Sau khi Lâm Tế khai hóa chỉ dùng gậy hét dạy đồ chúng. Vừa thấy Tăng vào cửa liền hét.
Niêm: Mùng năm tháng năm giờ ngọ viết,
Miệng đỏ lưỡi độc tận tiêu trừ.
Tụng: Vào nhà liền hét muốn làm chi?
Dẫn được cháu con tỉnh giấc mê.
Chẳng phải sấm xuân vang một tiếng,
Làm sao vỏ hạt được nẩy mầm.
17. Cử: Nam Tuyền nói: Tâm bình thường là đạo.
Niêm: Lạnh nói là lạnh, nóng nói là nóng.
Tụng: Rìu búa không cần, ngọc trắng tinh,
Đâu do mài giũa để cầu tân.
Đường về chẳng bước nhà vẫn tới,
Trao kẻ trèo non buông thõng tay.
18. Cử: Triệu Châu nói: Mọi người bị mười hai thời sai khiến, Lão tăng sai khiến được mười hai thời.
Niêm: Cậy thế dối người, không nơi căn cứ.
Tụng: Lão này hay khiển mười hai thời,
Rồng dữ cọp hung thảy được thuần.
Cần phương chỉ sắt thành vàng thật,
Chẳng để cho người có việc nghe.
19. Cử: Tăng hỏi Lâm Tế: Thế nào là vô vị chân nhân? âm Tế đáp: Cục cứt khô.
Niêm: Bắn sẻ mất châu, ném chuột nhơ đồ.
Tụng: Vô vị chân nhân, cục cứt khô,
Do người Thích tử mất gia phong.
Nhìn xuống xem xem, biết chẳng biết,
Con trâu vào biển dấu vết không.
20. Cử: Triệu Châu nói: Khám phá bà già ở Ngũ Đài Sơn xong.
Niêm: Ngũ nghịch nghe sấm, chẳng cho bịt tai.
Tụng: Khảy móng Đài Sơn hết nói ngoa,
Chẳng phiền bước tới được về nhà.
Can qua chẳng động lòng người phục,
Gươm bén đâu cần ra hộp ngà.
21. Cử: Triệu Châu nói: Phật vàng không độ được lò đúc, Phật gỗ không độ được lửa, Phật đất không độ được nước, Phật thật ngồi trong nhà.
Niêm: Núi là núi nước là nước, Phật ở chỗ nào?
Tụng: Trên đồ Võng Xuyên xếp thành hình,
Ngày trước Vương Duy được nổi danh.
Uổng phí mực son nơi khó vẽ,
Trong không trăng sáng cùng gió lành.
22. Cử: Triệu Châu nói: Tôi ở Thanh Châu may một chiếc áo vải nặng bảy cân.
Niêm: Trấn Châu củ cải còn thể được,
Thanh Châu áo vải lại phiền người.
Tụng: Một manh áo vải thật lạ thường,
Tùng Thẩm không màng chẳng cất rương.
Trong đây nghĩ nghị chia cân lượng,
Cười ngất nhà đông, Mạnh Bát Lang.
23. Cử: Vị Tăng hỏi Triệu Châu: Con chó có Phật tánh không?
Triệu Châu đáp: Không. Tăng lại hỏi, Triệu Châu đáp: Có.
Niêm: Lấy hai so một.
Tụng: Hỏi ngay ở trước, đáp có không.
Bảo thẳng ngay lời dứt nhóm ngông.
Một đời tự phụ người tài giỏi,
Thế ấy vẫn là chẳng trượng phu.
24. Cử: Triệu Châu nói: Chỗ có Phật chẳng trụ, chỗ không Phật chạy qua gấp.
Niêm: Nước đến thành ao, roi va lằn nổi.
Tụng: Chỗ Phật có không cả hai quên,
Lời này xem lại chưa được toàn.
Sau rốt cầm hoa đưa trở lại,
Chẳng rời tấc bước đến Tây thiên.
25. Cử: Thủ Sơn đưa trúc bề nói: Bảo là trúc bề tức chạm, chẳng gọi trúc bề tức trái, hãy gọi là cái gì?
Niêm: Chớ động đến, động đến ăn ba mươi gậy.
Tụng: Trúc bề chạm, trái thật khó phân,
Ngay đó rõ ràng nhắc với người.
Tuy vốn đường bằng bụi không dấy,
Một trường bày hiện gai góc đầy.
26. Cử: Tăng hỏi Động Sơn (Thủ Sơ): Thế nào là Phật? Sơn đáp: Trên vách ba cân gai.
Niêm: Gọi một vật lại chẳng trúng.
Tụng: Hỏi Phật thế nào, nói đáp anh,
Động Sơn trên vách gai mấy cân.
Tuy nhiên không có phong trần dính,
Cũng vẫn còn đem cảnh chỉ người.
27. Cử: Tăng hỏi Hòa thượng Hiện Tử: Thế nào là ý Tây sang? Hiện Tử đáp: Mâm rượu trước bàn thần.
Niêm: Nếu chẳng phải sư tử con, đâu khỏi chạy theo khối đất lăn.
Tụng: Chặt đứt cội nguồn không chỗ nương,
Ở đây nhắc lại để anh tường.
Nếu bảo trước thần là Tổ ý,
Khác nào kẻ gọi khố là quần.
28. Cử: Quốc sư Vô Nghiệp nói: Nếu niệm phàm thánh bằng đầu sợi lông chưa hết, chưa khỏi vào bụng ngựa thai lừa. Hòa thượng Bạch Vân Đoan nói: Giả sử niệm phàm thánh bằng đầu sợi lông hết, cũng chưa khỏi vào bụng ngựa thai lừa.
Niêm: Đốt non cần cọp chạy, đập cỏ cốt rắn kinh.
Tụng: Lời này xét lại chí khí khinh,
Đập cỏ cốt là bọn rắn kinh.
Nếu người rành lối Trường An ấy,
Buông thõng tay đi khỏi hỏi trình.
29. Cử: Huyền Sa dạy chúng nói: Các bậc Lão túc khắp nơi đều bảo: “Tiếp vật lợi sanh.” Chợt gặp ba hạng người bệnh lại, làm sao tiếp? Người bệnh mù, giơ chùy dựng phất họ chẳng thấy. Người bệnh điếc, nói năng tam-muội họ không nghe. Người bệnh câm, dạy họ nói, nói không được.
Niêm: Khát uống đói ăn, lạnh mặc nóng quạt.
Tụng: Buồn thì ủ rũ vui tươi cười,
Mũi dọc mày ngang chẳng khác người.
Đói khát lạnh nồng tùy chỗ được,
Đâu nên bất chợt lại sanh nghi.
30. Cử: Thụy Nham thường gọi: Ông chủ nhân, tỉnh tỉnh đi, về sau chớ bị người lừa gạt.
Niêm: Khóc đến máu tuôn không chỗ dụng,
Chi bằng ngậm miệng qua xuân tàn.
Tụng: Thụy Nham thường gọi chủ nhân ông,
Lược giỏi cơ sâu cũng chẳng hùng.
Nếu quả thế gian tướng vô địch,
Đợi gì gươm giáo mới là hưng.
31. Cử: Tam Thánh nói: Tôi gặp người liền ra, ra thì chẳng vì người. Hưng Hóa nói: Tôi gặp người thì chẳng ra, ra thì vì người.
Niêm: Một con rùa mù, nửa cặp trạnh què.
Tụng: Gặp khát tức thì uống nước ngay,
Nói ăn ngày trọn bụng đói chay.
Hai bên gươm bén thôi niêm kín,
Khi khác trẻ con miệng họa này.
32. Cử: Nam Tuyền thấy Đặng Ẩn Phong đến, chỉ tịnh bình nói: Tịnh bình là cảnh, ông không được động đến cảnh.
Niêm: Nói có, nhằm chỗ nào để.
Tụng: Trong gương không nhớp luống tự chùi,
Dụng hết công phu uổng phí thôi.
Lặng lặng im im tùy chỗ thích,
Cơm xong liền đó uống chung trà.
33. Cử: Thạch Đầu nói: Thế ấy chẳng được, chẳng thế ấy cũng chẳng được, thế ấy chẳng thế ấy thảy chẳng được.
Niêm: Các hạnh vô thường, tất cả đều khổ.
Tụng: Câu nói hay khéo đem đến ông,
Tạm làm mây trắng che cửa động.
Dù cho toàn được mười phần đúng,
Vẫn ở giữa đường muôn dặm trông.
34. Cử: Tăng hỏi: Thế nào là cảnh Giáp Sơn? Sơn đáp: Vượn ẵm con về sau núi biếc, chim tha hoa rụng trước non xanh.
Niêm: Cây gậy tùy thân, gặp trường thì đùa.
Tụng: Giáp Sơn cảnh vắng không người đến,
Ngay đó phải nên làm những gì?
Nếu người thật được đôi mắt sáng,
Giờ ngọ mặc tình trống canh ba.
35. Cử: Tăng hỏi Mục Châu: Một hơi thở tụng hết một tạng kinh không? Châu đáp: Có bao nhiêu bánh đem hết lại đây.
Niêm: Buông tay đến nhà, chẳng nhọc tiến bước.
Tụng: Một hơi tự khéo tụng tạng kinh,
Vạch lá tìm cành chẳng nhọc mình.
Vô biên huyền nghĩa đều hiện rõ,
Hỏi đến Sơn tăng thảy chẳng minh.
36. Cử: Trong hội Lâm Tế, hai vị Thủ tọa nhà Đông nhà Tây gặp nhau đồng thời hét. Tăng hỏi: Lại có chủ khách hay không? Lâm Tế đáp: Chủ khách rõ ràng.
Niêm: Cũng là vượn trắng nói lăng xăng.
Tụng: Thánh chúa ngày nay cổ hóa phong,
Bản đồ văn phạm trọn cùng đồng.
Bờ cõi xa gần phân rành rõ,
An dân tế thế nào kể công.
37. Cử: Huyền Sa nói: Nếu luận việc này, ví như người chủ một thửa ruộng, đến trong một phạm vi đã bán cho các ông rồi, chỉ còn cái cây ở trung tâm vẫn thuộc về Lão tăng.
Niêm: Biển cả chẳng nạp tử thi.
Tụng: Dù người liễu ngộ ngời ngời tỏ,
Muôn lự đầu tâm hết lăng xăng;
Trong đây còn có tơ hào dấy,
Vào mắt mạt vàng lại xốn xang.
38. Cử: Tăng hỏi Hòa thượng Tư (Hành Tư) về đại ý Phật pháp.
Hòa thượng Tư đáp: Ở Lô Lăng giá gạo bao nhiêu?
Niêm: Bóng trúc quét thềm trần chẳng dấy,
Vầng trăng xuyên biển nước không tỳ.
Tụng: Lời này quả thật bậc anh linh,
Gồm hết căn cơ tiếp hữu tình.
Một hỏi, Lô Lăng gạo giá mấy,
Hoàn toàn trọn chẳng dính đồ trình.
39. Cử: Tăng hỏi Thiền sư Văn-thù: Muôn pháp về một, một về chỗ nào? Văn-thù đáp: Sông Hoàng Hà chín khúc.
Niêm:Nhân khi có trăng đẹp, bất thần qua Thương Châu.
Tụng: Hoàng Hà chín khúc vì nêu ra,
Chẳng dính đồ trình tự đến nhà.
Nhiều kẻ ban ngày mở mắt ngóng,
Đâu hay chim trĩ đến Tân La.
40. Cử: Nam Tuyền hỏi Triệu Châu: Ngươi là Sa-di có chủ hay Sa-di không chủ? Triệu Châu đáp: Có chủ. Nam Tuyền hỏi: Thế nào là chủ? Triệu Châu khoanh tay thưa: Hôm nay kính chúc Hòa thượng luôn được muôn phước.
Niêm: Co tay chuyển chùy chẳng đổi gươm,
Người khéo sử dụng đều được tiện.
Tụng: Khoanh tay Tùng Thẩm chỉ cho người,
Chẳng kẹt hai bên chủ tự phân.
Đâu phải Hoa Lam Hàn lệnh thuật,
Nào hay khéo nấu rượu Tuân tuần.
41. Cử: Tăng hỏi Mộc Am: Thế nào là việc của Nạp y (Tăng sĩ). Mộc Am đáp: Dùi châm chẳng vào.
Niêm: Ngồi yên dứt mảy trần, hư không chẳng lối thông.
Tụng: Cầm thì mịn mượt, ấn thì mềm,
Trán sắt đầu đồng đụng chẳng xuyên.
Vốn thật hư không, không gián cách,
Đêm về như cũ hoa quế thu.
42. Cử: Bàng cư sĩ nói: Đây là trường thi Phật, tâm không được đậu về.
Niêm: Tháp nhạn đề tên, không dung giấy trắng.
Tụng: Áo may trăm mảnh giày cỏ xuyên,
Thi Phật trong trường đã có tên.
Nếu bảo tâm không lại ứng cử,
Chẳng ăn roi vọt cũng ăn thoi.
43. Cử: Từ Minh hỏi Chân Điểm Hung về đại ý Phật pháp. Chân đáp: Không mây sanh đỉnh núi, có trăng rơi lòng sông. Minh hét, nói: Đầu bạc răng vàng vẫn khởi kiến giải này. Chân rơi lệ, giây lâu nói: Không biết thế nào là đại ý Phật pháp? Minh đáp: Không mây sanh đỉnh núi, có trăng rơi lòng sông. Chân đại ngộ.
Niêm: Người nhân thấy thì gọi là nhân, người trí thấy thì gọi là trí.
Tụng: Kia đây đồng khảy một cung đàn,
Cần phải trao cho bạn tri âm.
Không mây, trăng có tuy đồng đấy,
Nào khác núi cao cùng nước sâu.
Dốt: Trọn ngày theo hồng trần,
Chẳng biết báu nhà mình.
Ôi: Buông tay không tựa toàn thể hiện,
Lão chài thuyền nhỏ đậu hoa lau.
Giảng
Niêm tụng kệ do ngài Trần Thái Tông biên soạn gồm bốn mươi ba bài, mỗi bài chia làm ba phần: Cử, Niêm và Tụng. Cử là đề ra hay nêu lên một câu chuyện hoặc một câu trong kinh để giải thích. Niêm là rút gọn hay tóm tắt để nói rõ ý nghĩa của vấn đề. Tụng là giải bày thành một bài kệ bốn câu.
1. Cử: Thế Tôn chưa rời Đâu-suất đã giáng Vương cung, chưa ra thai mẹ độ người đã xong.
Niêm: Gươm báu chưa vung, tướng quân đã lộ.
Tụng: Không có hình hài, chửa rời quê,
Sớm tối đưa người qua bến mê.
Cất bước ngao du không xen cách,
Chẳng cần thuyền gỗ với phao bè.
Trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Thế Tôn chưa rời Đâu-suất đã giáng Vương cung, chưa ra thai mẹ độ người đã xong.”
Ngài Trần Thái Tông toát yếu gọn lại: “Gươm báu chưa vung, tướng quân đã lộ.” Nghĩa là người tướng quân chưa hươi gươm chém giặc, mà hình thức tướng quân đã lộ, vì mang giáp đeo kiếm nên biết là tướng quân. Cũng vậy, tuy đức Phật chưa rời trời Đâu-suất đã giáng sanh trong Vương cung, chưa ra khỏi thai mẹ đã hiển bày thể bất sanh bất diệt.
Không có hình hài chửa rời quê,
Sớm tối đưa người qua bến mê.
Tuy chỉ là pháp thân, chưa có báo thân hay hóa thân, tức là chưa ra đời mà đã độ chúng sanh rồi.
Cất bước ngao du không xen cách,
Chẳng cần thuyền gỗ với phao bè.
Pháp thân trùm khắp không vắng mặt nơi nào, nên không phải chờ có hình thức phao bè mới độ được người. Chính trong thể bất sanh bất diệt là thể độ chúng sanh ra khỏi bến mê.
2. Cử: Thế Tôn mới sanh ra một tay chỉ trời, một tay chỉ đất nói: Trên trời dưới đất chỉ ta tôn quí.
Niêm: Một áng mây trắng che cửa động,
Đàn chim về tổ thảy quên đường.
Tụng: Đạt-đa mới giáng Tịnh Vương cung,
Muốn hóa quần sanh tự hiển tung.
Bảy bước đi quanh chỉ trời đất,
Bao người con Phật mất gia phong.
Đức Phật vừa ra đời, tay chỉ trời tay chỉ đất nói: Trên trời dưới đất chỉ ta là hơn hết. Nghe hai câu này có nhiều người nghĩ ngã của Ngài to quá.
Nhớ lại khi xưa tôi đi giảng, có một Phật tử hỏi: Thưa Thầy, thường mỗi bài kệ trong kinh có bốn câu, vì sao ở đây đức Phật chỉ nói hai câu:
Thiên thượng thiên hạ,
Duy ngã độc tôn.
Còn hai câu nữa ở đâu? Tôi về tra lại trong kinh A-hàm, mới biết còn hai câu nữa là:
Nhất thiết thế gian,
Sanh lão bệnh tử.
Như vậy bài kệ có tất cả bốn câu:
Thiên thượng thiên hạ,
Duy ngã độc tôn.
Nhất thiết thế gian,
Sanh lão bệnh tử.
Dịch:
Trên trời duới trời,
Chỉ ta hơn hết.
Tất cả thế gian,
Sanh già bệnh chết.
“Chỉ ta hơn hết” là hơn chỗ ta là người đã qua khỏi sanh già bệnh chết, còn thế gian vẫn mắc kẹt trong bốn cảnh này. Bên Đại thừa thường dùng hai câu trước bỏ hai câu sau, tại sao? Vì không muốn nói qua khỏi sanh già bệnh chết là hơn hết, tức là không nói người giải thoát sanh tử là hơn hết. Đại thừa nói “Ta là hơn hết”, vì Ta là pháp thân, chớ không phải Ta là thân phàm tục do báo, hóa hiện ra, vì vậy nói Ta hơn hết là đủ rồi, không nói thêm hai câu sau nữa.
Trong kinh Kim Cang có bài kệ bốn câu thường được nhắc đến là:
Nhược dĩ sắc kiến ngã,
Dĩ âm thanh cầu ngã,
Thị nhân hành tà đạo,
Bất năng kiến Như Lai.
Dịch:
Nếu dùng sắc thấy Ta,
Dùng âm thanh cầu Ta,
Người ấy hành đạo tà,
Không thể thấy được Phật.
Chữ Ta trong bài kệ không có sắc tướng, không có âm thanh, đó là pháp thân. Pháp thân bất sanh bất diệt là hơn hết, không phải chỉ đức Phật mới có, mà ai ai cũng có, nên nói Ta hơn hết là đủ, không nói thêm nữa.
Một áng mây trắng che cửa động,
Đàn chim về tổ thảy quên đường.
Đây là thấy hình thức mà không thấy chỗ về. Hình thức là tay chỉ trời tay chỉ đất nói: Ta là hơn hết. Ai cũng nghĩ Ta là thân này, cho nên không thể nào thâm nhập được lời Phật nói. Ngài Trần Thái Tông dùng hai câu niêm để giải thích: Vì đám mây trắng che cửa động, nên đàn chim quên đường về tổ. Nghĩa là vì lầm chấp thân tứ đại là Ta nên không ai trở về được với pháp thân bất sanh bất diệt.
Đạt-đa mới giáng Tịnh Vương cung,
Muốn hóa quần sanh tự hiển tung.
Bảy bước đi quanh chỉ trời đất,
Bao người con Phật mất gia phong.
Ngài Tất-đạt-đa vừa giáng sanh ở cung vua Tịnh Phạn, vì muốn giáo hóa quần sanh nên Ngài hiển bày tung tích của mình, là phải đạt được pháp thân. Chúng ta cứ nghĩ Ta là thân này cho nên không ai thấy được chỗ Phật chỉ. Đức Phật đi bảy bước tay chỉ trời, tay chỉ đất nói: Ta là hơn hết, chủ yếu là chỉ thể bất sanh bất diệt nơi mọi người. Vì lầm nhận thân tứ đại là mình nên không ai thấy được pháp thân. Thế nên bao người con Phật quên mất gia phong nhà mình.
3. Cử: Thế Tôn đưa cành hoa, Ca-diếp mặt rạng rỡ mỉm cười.
Niêm: Vén đứng lông mày để mắt xem,
Tiến lên suy nghĩ cách ngàn non.
Tụng: Thế Tôn nắm dựng một cành hoa,
Ca-diếp sáng nay được đến nhà.
Nếu bảo đây là truyền pháp yếu,
Về Nam xe Bắc lối càng xa.
Đức Phật nêu lên cành hoa, đưa mắt nhìn đại chúng, ai cũng im lặng, chỉ có ngài Ca-diếp mỉm cười.
“Vén đứng lông mày để mắt xem” là chỉ các bậc lão niên lông mày rủ xuống, phải vén lên nhìn, nếu mỉm cười là đúng. “Tiến lên suy nghĩ cách ngàn non”, vừa khởi niệm suy nghĩ là cách xa ngàn dặm, không bao giờ thấy được.
Thế Tôn nắm dựng một cành hoa,
Ca-diếp sáng nay được đến nhà.
Đức Thế Tôn đưa cành hoa nhìn đại chúng, ngài Ca-diếp mỉm cười. Ngay đó đức Phật liền truyền pháp ấn cho Ngài: “Ta có Chánh pháp Nhãn tạng, Niết-bàn Diệu Tâm..., nay trao cho Ma-ha Ca-diếp.” Phật nói trao Chánh pháp Nhãn tạng mà Ngài có trao cái gì không? Thế nên nói:
Nếu bảo đây là truyền pháp yếu,
Về Nam xe Bắc lối càng xa.
Muốn về Nam mà xe hướng đầu đi qua phương Bắc thì càng đi càng xa. Vậy có truyền pháp ấn hay không? Không có mà có. Nếu nghĩ pháp ấn là cái gì từ tay trao cho là không bao giờ hiểu được. Chẳng qua vị thầy muốn chỉ cái đó cho thấy, người đệ tử nhận thấy, sáng lên, biết được ý thầy, vị thầy liền ấn chứng. Vì thế đức Phật đưa cành hoa lên, chư Tổ trong nhà Thiền dựng đứng phất tử, Tổ Bá Trượng chỉ đốm lửa, yếu chỉ đâu có khác. Đó là những điểm đặc biệt trong nhà Thiền.
4. Cử: Ngoại đạo hỏi Phật: Chẳng hỏi có lời, chẳng hỏi không lời.
Niêm: Trừ người quả thật con ta đó,
Ai kẻ bạo chân vào đường này.
Tụng: Lao quan khó buộc có ai tri,
Ngôn ngữ đều quên không chỗ y.
Chẳng phải trong đời con ngựa giỏi,
Do đâu bất chợt được tiện nghi.
Có một ngoại đạo đến hỏi Phật: Tôi chẳng hỏi có lời, chẳng hỏi không lời. Đức Phật ngồi lặng thinh. Ngoại đạo tán thán: Thế Tôn vì con mà chỉ chỗ cứu kính. Vậy Phật có nói câu nào không?
Trừ người quả thật con ta đó,
Ai kẻ bạo chân vào đường này.
Người nào là con thật của ta mới dám đi đường này, ngoài ra không ai dám cất bước vào.
Lao quan khó buộc có ai tri,
Ngôn ngữ đều quên không chỗ y.
Khi đến chỗ cuối cùng, không bị trói buộc, đâu có ai biết được. Tôi xin nhắc lại câu chuyện trong kinh: Có một ngoại đạo đến hỏi Phật: Thưa Thế Tôn, con không hỏi có lời, không hỏi không lời, Thế Tôn dạy cho. Đức Phật ngồi lặng thinh giây lâu. Ngoại đạo nói: Thế Tôn thật là đại từ đại bi, đã chỉ cho con chỗ cứu kính. Khi ngoại đạo đi rồi, Ngài A-nan đứng hầu một bên, ngạc nhiên hỏi Phật: Bạch Thế Tôn, ngoại đạo hiểu gì mà nói câu đó. Phật bảo: Con ngựa hay thấy bóng roi liền chạy. Vì thế trong bài tụng có hai câu:
Chẳng phải trong đời con ngựa giỏi,
Do đâu bất chợt được tiện nghi.
Bất chợt là dịch chữ Hán “đặc địa”. Con ngựa hay là nhắc lại câu chuyện trong kinh. Tất cả ngôn ngữ nói ra không phải là cứu kính, tại sao? Vì ngôn ngữ lập trên phương diện đối đãi, chớ không phải tuyệt đối. Như nói trắng là đối với đen, nói tốt là đối với xấu, nói phải là đối với quấy, không có câu nói nào ngoài đối đãi. Thường đến chỗ vượt đối đãi chư Tổ chỉ hét hoặc hư một tiếng mà không nói lời nào. Còn chúng ta cả ngày nói ồn ào, cố gắng nói đến chỗ cứu kính, mà càng nói càng xa. Dù có nói gì cũng ở trong đối đãi phải quấy, hơn thua, còn đối đãi là không phải chân lý. Thế nên chân lý không có ngôn ngữ, ngôn ngữ không có chân lý. Nhưng muốn cho người hiểu chúng ta phải nói, lại còn viết sách nữa, đó đều là mượn những đối đãi để tạm hiểu thôi. Thật ra chỗ cứu kính không có ngôn ngữ, vì ngôn ngữ có hai lỗi: Một là lập trên đối đãi không phải tuyệt đối. Hai là lời nói do khởi nghĩ mới có nên động, còn chân lý là không động, vì thế lời nói không đến được chân lý. Do hai lỗi này nên mất đi cái chân thật. Việc này chỉ có con cháu trong nhà mới biết được.
5. Cử: Thế Tôn lên pháp tòa, Văn-thù bạch chúng rằng:
Quán kỹ pháp Pháp vương, pháp Pháp vương như thế.
Niêm: Khảy khúc Dương Xuân đàn không dây.
Muôn năm ngàn thuở tiếng nào dứt.
Tụng: Tuy nói câu câu chẳng vết tỳ,
Giấu sừng đuôi vẫn hiện như ri.
Nào giống một cành sáo không lỗ,
Vì anh thổi khúc Thái bình thi.
Thế Tôn lên pháp tòa, Văn-thù bạch chúng rằng: Quán kỹ pháp Pháp vương, pháp Pháp vương như thế. Đây là bạch chùy, tức là đánh kiểng rồi trình bạch với chúng: Quán kỹ pháp của Pháp vương, pháp của Pháp vương như thế. Nói như vậy mới đủ.
Khảy khúc Dương Xuân đàn không dây,
Muôn năm ngàn thuở tiếng nào dứt.
Khảy bản nhạc Dương Xuân với cây đàn không dây, tiếng đàn còn mãi không bao giờ dứt bặt. Nếu tiếng do động mà ra, tức nhiên có sanh phải có diệt. Còn tiếng không động mà có, tiếng đó không bao giờ diệt, nên muôn năm ngàn thuở không bao giờ dứt.
Pháp của Pháp vương như thế, chúng ta hiểu chữ “như thế” ra sao? Trong kinh Pháp Hoa, đức Phật giảng về “Thập Như Thị”: như thị nhân, như thị duyên, như thị quả, như thị báo v.v... tất cả là mười pháp như thế. Pháp của Pháp vương như thế tức là pháp của Phật là như thế, đây là chỉ tướng chân thật của các pháp.
Trong nhà Phật chữ “như thế” có nghĩa rất đặc biệt. Tỉ dụ đây là cái tách. Có người hỏi: Cái tách ra làm sao? Đáp: Cái tách là cái tách, nó như thế. Đáp vậy là đúng như thị. Nếu nói cái tách này xấu là có so sánh với cái tách khác đẹp hơn. Tức là khi trước chúng ta đã thấy một cái tách khác và đem hình bóng của cái tách cũ để đối chiếu với cái tách hiện giờ. Chúng ta luôn luôn dùng hình bóng quá khứ để so sánh với hiện tại, có so sánh là không thấy như thật. Nếu nói cái tách là cái tách, không nói gì thêm, nhìn thấy nó như thế là thấy như thật, đó là nhìn đúng với con mắt nhà Thiền. Nếu nhìn cái tách nói là đẹp là xấu, là nhìn với con mắt phân biệt so sánh, tức không thấy đúng như thật.
Như hiện giờ chúng ta nhìn một người đã có ác cảm với mình khi trước, vừa trông thấy người ấy, chúng ta cảm thấy không vui trong lòng, dù người ấy đang nói những lời tốt lành với bè bạn. Đó là chúng ta nhìn với khuôn cũ sẵn có cho người ấy là xấu, không thể nào tốt được. Giả sử có người có cảm tình với chúng ta khi trước, bị phê bình là xấu là dở, chúng ta liền phản đối và bênh vực ngay. Tại sao? Vì chúng ta nhìn theo hình bóng đẹp khi xưa đã có sẵn nơi chúng ta, nên không thấy đúng như thật về con người đó. Tóm lại, nếu thấy đúng “như thế”, thì khi nhìn một người nào, chúng ta không có gì bực bội chê bai hay bênh vực bào chữa. Vì thế người tu thiền là lột hết những khuôn cũ, những kiến chấp cũ mà thế gian gọi là thành kiến hay định kiến, chỉ thấy con người và sự vật đúng như thật ngay đây và hiện giờ, các pháp như thế nào thấy như thế ấy, chớ không đem khuôn cũ để so sánh với cái mới hiện tại. Thế nên pháp “như thị” rất hay, rất đặc biệt. Tinh thần đạo Phật là thấy tất cả như thật, không theo thành kiến của chính mình hay của những người thân thuộc bạn bè lập ra. Nếu thấy đúng tinh thần “như thị’ thì chúng ta không có phiền não. Trái lại thấy trong so sánh phân biệt thì chúng ta sẽ bực bội rất nhiều. Đối diện với người oán hờn mình, nếu thấy “như thị” thì chúng ta không còn bực tức, nghĩa là không có oán tắng hội khổ. Nếu sống “như thị” thì có người thương hay không có cũng thôi, thì đâu có ái biệt ly khổ. Sống “như thị” thì không khởi niệm mong cầu, thế là không còn cầu bất đắc khổ... Thấy “như thị’ thì tất cả khổ đau theo đó tan hoang như mây khói. Sở dĩ hiện nay bao nhiêu thứ khổ đau dồn dập tới là vì chúng ta sống với hình bóng quá khứ, sống với mong cầu tương lai, chớ không sống với các pháp hiện tại. Những gì trong quá khứ chúng ta cứ nuôi dưỡng, nên khi đối diện với hiện tại, như ý thì vui, trái ý thì buồn, như ý và trái ý là đối với khuôn cũ sẵn có. Dù cho hiện tại có thay đổi chăng nữa, nhưng vì thành kiến nên luôn luôn chúng ta sống trong đau khổ. Nếu sống đúng như thị thì chúng ta sẽ được an lành tự tại, những khổ đau ngang đây chấm dứt.
Như vậy cái thấy đúng “như thị” là cái thấy đạo đức, đâu mất thời giờ để nói chuyện năm xưa, đâu mất thời giờ để so sánh đối chiếu. Sống trong hiện tại, giờ ăn cơm cứ ăn cơm, giờ cuốc đất cứ cuốc đất, như thế chúng ta tránh được bao thứ điên đảo, hoặc của thời quá khứ hoặc của mong đợi tương lai. Thế nên Thiền sư nói: Cây gậy là cây gậy. Đó là nhìn đúng “như thị”. Pháp của Pháp vương như thế, mới nghe dường như đơn giản, kỳ thật khó hiểu làm sao! Song gốc của đạo là ở đây vậy, nên nói tiếng đàn không dây rất tuyệt vời không bao giờ mất.
Tuy nói câu câu chẳng vết tỳ,
Giấu sừng đuôi vẫn hiện như ri.
Nếu nói câu nào đều đúng “như thị” thì câu câu đều không tỳ vết. Giấu sừng mà đuôi vẫn hiện, nói như thị mới nghe tưởng như bí mật, nhưng đã bày hiện lẽ thật rồi, đó là giấu đầu mà ló đuôi.
Nào giống một cành sáo không lỗ,
Vì anh thổi khúc Thái bình thi.
Như có cành trúc dùng làm ống sáo mà không có lỗ, vì anh thổi khúc sáo Thái bình. Ai sống được như thị sẽ được thái bình an lạc muôn đời. Chúng ta hãy thử sống một ngày “như thị” xem có được thái bình muôn thuở chăng? Vì sống với quá khứ và vị lai cho nên chúng ta thường bất bình nổi sóng. Chúng ta ngồi lại cứ ôn nhớ những chuyện cũ rồi tự mình chuốc khổ, buồn thương giận ghét. Còn sống ngay hiện tại, tất cả như thế, thì đâu có khổ, đó thật là thái bình.
Việc tu hết sức là đơn giản, đâu phải làm những điều gì khó khăn, chỉ thấy đúng như thế thôi, không có so sánh để khen chê thương ghét. Nếu còn so sánh là còn thương ghét, khen chê, nhân đó sanh ra các thứ phiền não. Nếu thấy các pháp đều như thế thì không còn thương ghét khen chê, chẳng phải khúc sáo thái bình là gì? Như vậy tu là cốt đem lại cho mình một cuộc đời bình an vô sự, thanh thản không phiền hà, đó là “như thị”.
6. Cử: Vua nước Kế-tân cầm kiếm, bảo Tổ thứ hai mươi bốn (Tổ Sư Tử) rằng: Thầy được năm uẩn không chăng? Tổ đáp: Đã được. Vua hỏi: Lìa sanh tử chăng? Tổ đáp: Đã lìa. Vua hỏi: Có thể thí cái đầu cho tôi được không? Tổ đáp: Thân còn không phải của ta, huống nữa là đầu! Vua liền chém. Sữa trắng vọt ra, tay vua tự rơi.
Niêm: Đem đầu kề gươm bén,
Dường như chém gió xuân.
Tụng : Đao bén chém nước cùng xuy quang
(thổi ánh sáng),
Việc này nên biết nào ngại gì.
Báo tin sáng ấy xa khói, sóng,
Ai biết riêng có nghĩ suy lành.
Đây là câu chuyện Tổ Sư Tử bị vua Kế-tân giết. Ngài Trần Thái Tông niêm:
Đem đầu kề gươm bén,
Dường như chém gió xuân.
Vua Kế-tân đưa kiếm chém đầu Tổ dường như chém gió mùa xuân. Tại sao? Vì Tổ đã nói: Thân này còn không phải của ta huống nữa là đầu. Tức là thân này không phải của Ngài, nên khi bị chém đầu, Ngài xem như chém gió xuân, không có dính dáng gì với Ngài cả. Nếu người tu đến được chỗ này là thành Tổ rồi. Còn chúng ta hiện nay, nếu kiếm bén đưa đến gần liền quì lạy van xin tha mạng, là vì chúng ta còn thấy cái ngã quá to, quá nặng, nhưng với Tổ, Ngài thấy cái ngã không còn nữa. Thế nên có bài tụng:
Đao bén chém nước cùng xuy quang
(thổi ánh sáng),
Việc này nên biết nào ngại gì.
Dùng dao bén chém nước hay chém lửa cũng không được, nước và lửa không bị đứt. Dùng miệng thổi ánh sáng mặt trời, ánh sáng cũng không lay động. Như thế cầm dao chém lửa đang cháy, lửa không có vết tích gì, dùng dao chém nước dưới sông, nước cũng không tỳ vết. Đây là nói lên ý nghĩa: Khi vua Kế-tân cầm kiếm chém đầu Tổ Sư Tử, cũng như chém nước chém lửa, cũng như thổi ánh sáng, đối với Tổ không có nghĩa lý gì, nên nói “việc này nên biết nào ngại gì”. Tuy Tổ bị giết mà không có chút gì ngại ngùng hay khó khăn.
Báo tin sáng ấy xa khói, sóng,
Ai biết riêng có nghĩ suy lành.
“Xa khói, sóng” tức là bỏ thân nhớp nhúa vô thường. Thân này như khói, như sóng không có giá trị gì. Tuy bị chặt đầu, bỏ thân khói sóng, nhưng vẫn có hiện tượng tốt đẹp, nên nói: “riêng có nghĩ suy lành”, nghĩa là khi ấy Tổ được thảnh thơi giải thoát. Bỏ thân bại hoại vô thường, sống với thể bất sanh bất diệt, thì đẹp biết dường nào, đâu có gì phải lo sợ hay buồn khổ. Thế nên qua lời giảng của ngài Trần Thái Tông chúng ta thấy rõ những gì cần làm, cần tu, chớ không phải chỉ nói chuyện suông, nhất là đối với người tu Thiền.
7. Cử: Đại sư Đạt-ma đến chùa Thiếu Lâm ở Lạc Dương. Chín năm ngồi xây mặt vào vách.
Niêm: Để mắt xem, thôi ngủ gật.
Tụng: Chim bằng vỗ cánh đến Nam Minh (Nam Hải),
Nối gót luống công muôn dặm trình.
Đêm trước chỉ tham vui yến tiệc,
Sáng nay bất giác say men nồng.
Đây là kể lại câu chuyện Tổ Đạt-ma khi đến ở chùa Thiếu Lâm, tại kinh đô Lạc Dương.
“Tổ Đạt-ma đến chùa Thiếu Lâm, chín năm ngồi xây mặt vào vách” để làm gì?
Ngài Trần Thái Tông niêm gọn lại: Để mắt xem, thôi ngủ gật. Tức là ngồi đó nhìn xem, chớ có ngủ gật. Chúng ta đừng tưởng lầm Tổ tiêu cực yếm thế, ngồi xây mặt vào vách, không nói đến ai. Mục đích Tổ ngồi đó là chờ người đủ điều kiện đến để truyền trao chánh pháp. Như vậy đây là một việc làm phi thường, chớ không phải có tánh cách tiêu cực, yếm thế, trốn thiên hạ. Cho nên có bài tụng:
Chim bằng vỗ cánh đến Nam Minh
(Nam Hải),
Nối gót luống công muôn dặm trình.
Chim đại bàng một khi vỗ cánh liền tới biển Nam Hải. Nếu bắt chước nối gót theo sau thì luống công vô ích, vì chim vỗ cánh đã bay xa muôn dặm, chúng ta có đi theo cũng không kịp. Đó là nói việc làm của Tổ Đạt-ma giống như chim đại bàng vỗ cánh. Nếu chúng ta bắt chước ngồi xây mặt vào vách như Ngài, chỉ uổng công vô ích, chớ không bao giờ giống Ngài được.
Đêm trước chỉ tham vui yến tiệc,
Sáng nay bất giác say men nồng.
Đêm trước chúng ta mê vui trong yến tiệc đến khuya, sáng lại giựt mình thức dậy, mặt trời đã lên cao mà còn say trong men nồng. Hai câu này ý nói: Chúng ta ở trong mê, mà tưởng lầm là giác, cũng như chúng ta bắt chước Tổ ngồi xây mặt vào vách, mà không biết mục đích của Ngài. Đó là bắt chước trong mê, chớ không phải đúng, như thế mê lại thêm mê, không có lợi ích gì.
8. Cử: Nhị Tổ xin Sơ Tổ pháp an tâm. Sơ Tổ bảo: Đem tâm ra ta an cho ông. Nhị Tổ thưa: Con tìm tâm không thể được. Sơ Tổ bảo: Ta an tâm cho ông rồi.
Niêm: Em bé lên ba ôm trống giấy,
Ông già tám chục mặc áo cầu.
Tụng: Tâm đã không tâm nói với ai,
Người câm thức mộng mắt tròn xoe.
Lão tăng dối bảo an tâm đấy,
Cười ngất bàng quan chẳng tự hay.
Nhị Tổ Huệ Khả xin Sơ Tổ Đạt-ma pháp an tâm. Sơ Tổ bảo: Đem tâm ra ta an cho. Ngài Huệ Khả tìm tâm không được, thưa: Con tìm tâm không được. Tổ bảo: Ta đã an tâm cho ngươi rồi. Như vậy Tổ có an tâm thật hay không? Làm cách gì để an tâm? - Không có một pháp để an tâm. Thế mà Sơ Tổ lại bảo đã an tâm cho ngươi rồi. Đó là nói thật hay không?
Ngài Trần Thái Tông niêm:
Em bé lên ba ôm trống giấy,
Ông già tám chục mặc áo cầu.
Trống giấy là của người lớn khéo đánh mới không bể, lại đưa cho con nít lên ba vỗ thì lủng ngay. Còn ông già tám mươi tuổi lại mặc áo cầu, là áo vẽ hình bông hoa để cho con nít mặc.
Ý ngài Trần Thái Tông nói Tổ Đạt-ma chỉ pháp an tâm cho Tổ Huệ Khả giống như là trao trống giấy cho đứa trẻ lên ba, hay là bắt ông già tám mươi tuổi mặc áo bông vậy. Đây là Tổ Đạt-ma đánh lừa nhưng rất khéo.
Tụng:
Tâm đã không tâm nói với ai,
Người câm thức mộng mắt tròn xoe.
Tâm đã không thật làm sao nói! Cũng như người câm nằm ngủ mộng thấy mình được đãi một bữa tiệc rất ngon, khi thức dậy muốn kể lại cho bạn bè làm sao kể? Chỉ nhìn người rồi trợn tròn đôi mắt, chớ không nói gì được. Cũng như vậy, tâm không thật lại bảo đem ra, làm sao đem. Tâm vọng tự nó dấy lên mình thấy nhưng không nói cho người nghe được, chỉ cho người thấy được, giống như người câm nằm mộng mà bảo kể lại giấc mộng thì không kể được.
Lão tăng dối bảo an tâm đấy,
Cười ngất bàng quan chẳng tự hay.
Tổ nói: ta an tâm cho ngươi rồi, đó là một cách nói dối, nhưng dối mà không dối. Người bàng quan không biết được việc này.
Hiện giờ chúng ta có biết Tổ Đạt-ma an tâm bằng cách nào không? Đây là thuật của Tổ, bảo an tâm mà tâm đó hư dối không thật, làm sao an? Tỉ dụ như hiện giờ cái tách cái dĩa có hình tướng để bên cạnh ghế nó sẽ ngã đổ, nếu để giữa bàn bảo đảm là an ổn. Vậy có hình thức mới có chỗ nơi. Còn tâm suy nghĩ vọng tưởng của chúng ta hiện giờ ra sao đang ở đâu? Nó không hình không tướng, muốn an làm sao an? Thế nên Sơ Tổ bảo: Tìm tâm đem ra ta an cho. Nghĩa là ông muốn an cái không hình không tướng, nếu tìm được đem ra đây, thì ta an được. Nhưng ngài Huệ Khả tìm đáo để không được. Khi tìm không được, tức là tâm an mất rồi. Như vậy ngài Huệ Khả tự an tâm mà nói Sơ Tổ an tâm, không phải nói dối là gì? Thế mà chúng ta nghĩ có pháp an tâm thật, đó là người bàng quan không biết gì.
Trọng tâm việc tu là biết xoay lại tìm. Vì tâm vọng không thật, nên một phen tìm lại nó mất tiêu, thế là tự nó đã an rồi. Nói an tâm nhưng thật ra không có tâm nào, không có cách nào để an, chỉ là biết xoay lại soi sáng chính mình, tâm vọng mất đi, đó là an tâm. Đây là điểm đặc biệt trong nhà Thiền, nếu chúng ta không nắm vững, khó mà biết được chỗ này.
9. Cử: Ngài Văn-thù thấy cô gái nhập định gần Phật. Ngài đến xuất định không được. Phật sai Bồ-tát Võng Minh đến xuất định được.
Niêm: Đứa con oan gia, mất gia phong ta.
Tụng: Đều cùng xuất định có sơ thân,
Định ấy nên là chửa chánh chân.
Nếu thật Hóa công không hậu bạc,
Xoay vần xuân đến khắp mọi phần.
Đây là câu chuyện dẫn trong kinh: Một hôm đức Phật đang thuyết pháp cho Tăng chúng, có một cô gái đến ngồi gần tòa đức Phật nhập định. Ngài Văn-thù thấy vậy là vô phép, mới dùng thần thông để xuất định cho cô, nhưng không được. Sau đó đức Phật bảo Bồ-tát Võng Minh đến xuất định thì cô mới xuất. Ngài Võng Minh là Bồ-tát mới tu, còn ngài Văn-thù là Bồ-tát Đại Trí, rất là đặc sắc, thế mà Ngài không làm được việc mà một vị sơ cơ làm được. Như vậy định của cô gái có phải là đại định không?
Lời Niêm: Đứa con oan gia, mất gia phong ta. Nếu là định cứu kính chân thật thì người đại trí đã cho xuất được, còn định đó chưa phải là chân thật nên người tu sơ cơ cũng xuất được. Thí dụ như có những Phật tử nghiên cứu Phật pháp khá, đến đây hỏi đạo lý với tôi, khi tôi giảng nói họ nghe họ hiểu. Còn nếu người chưa hiểu Phật pháp chút nào hay hiểu lệch lạc, đến đây hỏi, tôi có nói họ cũng không hiểu. Nhưng khi đến nhà khách, thầy Tri khách nói họ lại hiểu. Vậy những gì cao sâu thì người tu cao nói được, còn những điều thông thường thì người thường nói chuyện vui vui đây kia họ nghe họ hiểu.
Thế nên có lời bình như sau:
Đều cùng xuất định có sơ thân,
Định ấy nên là chửa chánh chân.
Nếu cùng xuất định mà có kẻ sơ người thân thì định ấy chưa chân chánh.
Nếu thật Hóa công không hậu bạc,
Xoay vần xuân đến khắp mọi phần.
Nếu thật trời đất không có đối với người sâu, cạn khác nhau thì nơi đâu cũng được mùa xuân. Nhưng vì có hậu bạc, nên mùa xuân không cùng khắp. Đó là để nói định có chân và không chân, không phải định nào cũng đều chân chánh như nhau.
10. Cử: Mã Tổ nói: Từ sau loạn Hồ ba mươi năm, chưa từng thiếu tương muối.
Niêm: Dù cho chẳng phạm mảy may,
Vẫn là cầm bánh dính tay.
Tụng: Trước kia làm bạn khách rượu trà,
Quán rượu thường nằm bên cạnh nhà.
Giả thử khoe khoang người lanh lợi,
Giữa đường mất áo chịu thôi mà.
Đây là câu chuyện trong sử, Mã Tổ ra đi giáo hóa, trụ ở Giang Tây. Thầy Ngài là Tổ Nam Nhạc Hoài Nhượng cho người tới hỏi: Từ khi rời Tổ Nam Nhạc đến nay, Thầy ở đây truyền bá thế nào? Mã Tổ nói: Từ sau loạn Hồ ba mươi năm, chưa từng thiếu tương muối. Loạn Hồ tức là thời loạn lạc ở Trung Hoa. Sau đó ba mươi năm thì tương muối lúc nào cũng sẵn, không có thiếu. Ý muốn nói từ khi thấy đạo đến nay, lúc nào cũng hiện tiền, không có thiếu thốn.
Niêm:
Dù cho chẳng phạm mảy may,
Vẫn là cầm bánh dính tay.
Nói chưa từng thiếu tương muối, nghĩa là khoe ta là người không có thiếu. Như thế tuy không phạm lỗi, nhưng cũng là cầm bánh dính tay, hơi dơ một chút.
Ngài Trần Thái Tông có lời bình:
Trước kia làm bạn khách rượu trà,
Quán rượu thường nằm bên cạnh nhà.
Giả thử khoe khoang người lanh lợi,
Giữa đường mất áo chịu thôi mà.
Trước kia tức là lúc loạn Hồ.
Khoe khoang người lanh lợi là nói Mã Tổ bảo chưa từng thiếu tương muối. Nhưng giữa đường mất áo phải chịu thôi, nghĩa là tuy lanh lợi thật nhưng cũng bị mất áo tìm không được, vậy mới đúng với ý nghĩa cầm bánh dính tay. Nếu tự cho mình không từng vắng thiếu, vẫn là có chút khoe khoang!
Phụ chú:
1. Những bài Niêm Tụng này, mới nghe thấy rất khó. Người nghe chỉ có hứng thú trong cái dứt bặt nghĩ tưởng, còn suy gẫm thì không thấy thú chút nào. Nghe rồi mỗi ngày thấm một ít, lâu ngày thành quen, mới biết Thiền rất là quan trọng. Nhiều khi chúng ta nghĩ Thiền nói chuyện đâu đâu không hiểu nổi, dù có hay cũng trở thành không hay. Nếu không hay thì sách vở để lại làm gì cho vô ích? Chúng ta cần phải nhận hiểu đôi chút để nếm được hương vị Thiền mới thấy cái hay của người xưa. Người xưa hiểu và ứng dụng tới đâu, chúng ta ngày nay cũng noi theo gương đó để thực hành. Tuy những bài Niêm Tụng có khô khan nhưng chúng ta cố gắng nghe, rồi sẽ thấm được vị Thiền.
2. Chữ Biết trong đạo Phật
Hôm nay chúng tôi nói thêm về chữ Biết trong đạo Phật để quí vị nghe và nhận định kỹ trước khi bước vào đường tu tập.
Chữ Biết danh từ chuyên môn trong đạo gọi là Tâm. Đức Phật nhìn thấy nơi con người chúng ta có hai loại biết:
1.- Loại biết do duyên với bóng dáng của sáu trần rồi khởi suy nghĩ phân biệt, đó là cái biết sanh diệt, trong nhà Phật gọi là Vọng tâm.
2.- Còn cái biết sẵn nơi sáu căn, không do duyên với bóng dáng sáu trần, cũng không do suy nghĩ phân biệt, mà luôn luôn hằng có, đó là cái biết không sanh diệt, trong kinh Lăng Nghiêm đức Phật gọi là Chân tâm.
Như vậy Chân tâm là cái biết thường hằng không sanh diệt, còn Vọng tâm là cái biết duyên theo bóng dáng sáu trần, cái biết này hư dối, chợt sanh chợt diệt, chợt có chợt không, không phải là thật. Nhưng hầu hết chúng ta đang sống trong cái biết sanh diệt đó. Lúc nào có nghĩ có tính thì gọi là biết, khi không nghĩ không tính tưởng chừng như không biết. Vì thế chúng ta nhận cái biết sanh diệt làm tâm của mình, còn cái biết hằng hữu không sanh không diệt, mình lại bỏ quên, không nhận ra nó. Thế nên đức Phật nói chúng ta cứ mãi đi trong luân hồi sanh tử.
Cái biết duyên theo bóng dáng sáu trần, mà sáu trần là tướng vô thường sanh diệt, nên cái biết cũng là niệm sanh diệt. Bên ngoài chạy theo cảnh sanh diệt, bên trong nhận tâm sanh diệt làm mình, chạy theo hai tướng sanh diệt thì nhất định chúng ta phải đi trong sanh tử luân hồi. Ai cũng như ai đều chấp nhận, đều sống như vậy, cho nên đức Phật bảo: Chúng sanh bị trầm luân trong sanh tử luân hồi.
Hiện nay muốn dứt dòng sanh tử, đức Phật dạy chúng ta phải trở lại cái biết chân thật chưa bao giờ sanh diệt, cái biết đó mới là thật mình, mới là hằng hữu. Vì nó không duyên theo bóng dáng của sáu trần, nên không phải tướng sanh diệt, không sanh diệt thì làm gì có sanh tử luân hồi? Thế nên chúng ta sống trở về với cái biết chân thật là chúng ta biết tu, trở về cái không sanh diệt là chúng ta giải thoát. Thế thì sanh tử hay giải thoát gốc ở nơi mình. Nếu lầm nhận cái biết sanh diệt là mình thì lăn trong sanh tử, nhận cái biết không sanh diệt là mình thì giải thoát sanh tử.
Lâu nay sở dĩ chúng ta quanh quẩn không tìm ra lối đi, vì bị sanh diệt chi phối. Nghiệm cho thật kỹ, mỗi khi chúng ta suy nghĩ, thì cái suy nghĩ là cái biết sanh diệt. Cái suy nghĩ đó luôn luôn kèm theo những hình bóng của trần cảnh, hay ngôn ngữ, mà trần cảnh và ngôn ngữ đều là tướng sanh diệt, nên cái suy nghĩ về hai tướng đó cũng sanh diệt. Thế mà chúng ta cứ mãi sống theo cái sanh diệt, chớ không bao giờ sống với cái thật của mình. Nay muốn giải thoát sanh tử, chúng ta phải dừng cái sanh diệt để nhận ngay nơi mình có cái biết không sanh diệt, đó là chúng ta hướng về con đường giải thoát, trong nhà Thiền gọi là trở về cố hương. Còn đi theo sáu trần để chịu sanh tử, đó gọi là lang thang làm khách phong trần.
Hiễu rõ chỗ này rồi, chúng ta mới biết nhà Thiền nhắm thẳng vào cái gì. Nếu không hiểu, chúng ta thấy các Thiền sư nói những chuyện đâu đâu, rất là vô nghĩa vô lý. Thông thường chúng ta quen câu nói nào cũng phải có nghĩa có lý, tức là có suy gẫm, càng suy gẫm thì càng lăn trong sanh diệt. Thế nên câu nói hay nhất của nhà Thiền là câu nói không suy nghĩ được. Câu nói không suy nghĩ được mà mình nhận ra, thì đó là những câu rất hay, trong nhà Thiền gọi là lời nói sống hay hoạt ngữ. Còn câu nói mà suy nghĩ được nhà Thiền gọi là tử ngữ hay câu nói chết. Hiểu như vậy, khi đi sâu trong tinh thần Thiền tông, chúng ta mới thấm được cái hay. Nếu không, chúng ta nghe nói sao lạ lùng quá, không có một chút ý vị gì, nhưng không ý vị lại được các ngài khen, còn nói có suy gẫm thấy hay lại bị các ngài chê. Đó là chỗ thiết yếu trong sự tu. Nếu tu Thiền mà không nắm vững được lý này, thì không hiểu được đạo Phật. Đạo Phật cốt dạy chúng ta giác ngộ và giải thoát. Giác ngộ giải thoát là tự nơi mình. Tâm tư lóng lặng, trí tuệ sáng suốt, thấy được lẽ thật thì giác ngộ. Thấy được lẽ thật và sống được với lẽ thật đó, thì chúng ta không bị sanh tử nữa, đó là giải thoát. Gốc của sự tu là ở ngay chỗ này.
Chúng tôi phác họa đại khái để khi nghe các Thiền sư nói chuyện, quí vị không có ngỡ ngàng, không thấy khó khăn. Nếu không thì khi nghe những câu nói vừa vô nghĩa, vừa thô kệch, quí vị nghĩ rằng các Thiền sư nói năng không có gì hay cả, nhưng chính lời thô kệch vô nghĩa lại được khen, còn những lời văn hoa bóng bẩy lại bị chê. Hiểu được như vậy mới thấy chỗ đặc biệt của nhà Thiền.
11. Cử: Bá Trượng tái tham Mã Tổ, Mã Tổ hét một tiếng. Bá Trượng đại ngộ.
Niêm: Ngàn mũi nhọn, không bằng một nhát mai cùn.
Tụng: Ngày trước xe thơ chẳng cùng đồng,
Bốn bên dấy loạn tợ đàn ong.
Mã Tổ một phen vung kiếm bén,
Từ đây đường nẻo tin tức thông.
Đây là câu chuyện ngài Bá Trượng tái tham Mã Tổ. Tái tham tức là trở lại tham vấn lần thứ hai. Sở dĩ trở lại tham vấn là lý do như sau: Một hôm Mã Tổ đi dạo, ngài Bá Trượng theo hầu. Thấy một bầy vịt trời bay qua, Mã Tổ hỏi: Đó là cái gì? Sư thưa: Con vịt trời. Mã Tổ hỏi: Bay đi đâu? Sư thưa: Bay qua (tức là bay qua mất). Mã Tổ bèn nắm lỗ mũi Sư kéo mạnh, đau quá Sư la thất thanh. Mã Tổ bảo: Lại nói bay qua đi. Ngay câu ấy Sư tỉnh ngộ.
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy thầy trò như nói đùa nhau. Đi dạo vườn, thấy bầy vịt trời bay ngang trên hư không. Thầy hỏi: Cái gì? Trò đáp: Bầy vịt trời. Lại hỏi: Đâu rồi? Trò phải đáp làm sao? Tất nhiên phải đáp: Bay qua mất. Thầy liền nắm lỗ mũi kéo mạnh một cái, trò đau la thất thanh. Thầy bảo: Lại nói bay qua đi. Như vậy câu nói đó có lý thú gì mà ngay đó ngài Bá Trượng liền tỉnh ngộ? Chúng ta thử lặng tâm xem có thấy được chỗ ngộ của Ngài không?
Trở lại việc trước, khi ngài Bá Trượng làm thị giả cho Mã Tổ, mỗi khi thí chủ đem trai phạn đến, Ngài giở lồng bàn ra, Mã Tổ liền cầm nửa cái bánh đưa lên giữa chúng hỏi: Đây là cái gì? Trải qua ba năm như vậy, thị giả chịu thua không trả lời được.
Nếu chúng ta thưa: Là cái bánh, có trúng chỗ Tổ muốn nói chưa? - Chưa trúng. Qua thời gian ba năm, ngài Bá Trượng đã nuôi dưỡng cái gì rồi. Cho đến hôm nay thầy trò đi dạo vườn, Tổ mới sử dụng thuật bầy vịt trời bay qua, xem như Mã Tổ đã chuẩn bị trước ba năm, đến lúc này Tổ mới sử dụng và ngài Bá Trượng liền được tỉnh ngộ.
Khi ngộ xong trở về phòng thị giả, Sư khóc rất thống thiết. Những người cùng phòng hỏi: Huynh nhớ cha mẹ phải không? Sư đáp: Không. Hỏi: Bị người ta mắng chửi chăng? Đáp: Không. Tại sao khóc? - Lỗ mũi tôi bị Hòa thượng kéo đau thấu xương. Huynh đệ mới hỏi: Có nhân duyên gì không khế hội? Ngài trả lời: Huynh hỏi Hòa thượng đi. Những vị ấy đến hỏi Mã Tổ: Thị giả Hải có nhân duyên gì chẳng khế hội ở trong phòng khóc, xin Hòa thượng vì chúng con nói. Mã Tổ bảo: Y đã khế hội, các ngươi tự hỏi lấy y. Các vị về phòng hỏi: Hòa thượng nói huynh đã hội, bảo chúng tôi về hỏi huynh. Sư bèn cười hả hả. Các vị ấy bảo: Vừa rồi khóc, sao bây giờ cười? Sư đáp: Vừa rồi khóc bây giờ cười. Các vị ấy mờ mịt không hiểu.
Cách tu hành này thật lạ lùng, chúng ta thấy sự diễn tiến rất kỳ đặc. Tổ đưa nửa cái bánh lên hỏi: Đây là cái gì? Ai không biết là cái bánh, tại sao Tổ lại cầm cái bánh hỏi là cái gì, phải trả lời làm sao? Cho nên Ngài ôm ấp mãi việc này trong ba năm. Đến cuối cùng, khi bị Tổ kéo lỗ mũi và bảo: Sao không nói bay qua mất đi? Ngay đó Ngài liền thấy, thấy lỗ mũi hay thấy bầy chim?
Nghe câu chuyện chúng ta cứ mắc kẹt về bầy chim bay hay lỗ mũi bị kéo mạnh. Nhưng chỗ Thiền sư muốn chỉ không phải là chỗ đó. Bầy chim là tướng sanh diệt bên ngoài, lỗ mũi là tướng sanh diệt bên trong. Chỉ có cái không sanh diệt biết được bầy chim mới là quan trọng, đó là chỗ Tổ muốn chỉ. Tuy nhận được nhưng ngài Bá Trượng chưa đủ lòng tin rằng mình ngộ thật, nên về phòng Ngài khóc. Những người đồng phòng mới hỏi lý do, Ngài trả lời: Lỗ mũi tôi bị Hòa thượng kéo đau quá. Hỏi: Có nhân duyên gì không hội nên bị kéo lỗ mũi? Đáp: Huynh đến hỏi Hòa thượng đi. Khi những vị đến hỏi, Mã Tổ bảo: Y đã ngộ rồi, tức là Tổ xác nhận Ngài đã ngộ. Khi ấy Ngài cười hả hả, nghĩa là không còn nghi ngờ nữa. Ngài không tự đến hỏi Tổ mà nhờ các thầy đồng phòng đi hỏi giùm, đó là cái khéo của người xưa, khi được xác nhận Ngài cười to.
Đến hôm sau Mã Tổ vừa lên tòa, chúng nhóm họp xong, Sư bước ra cuốn chiếu. Mã Tổ xuống tòa, Sư theo sau đến phương trượng. Mã Tổ hỏi: Ta chưa nói câu nào, tại sao ngươi cuốn chiếu? Sư thưa: Hôm qua bị Hòa thượng kéo chót mũi đau. Mã Tổ hỏi: Hôm qua ngươi để tâm chỗ nào? Sư trả lời: Chót mũi ngày nay lại chẳng đau. Mã Tổ nói: Ngươi hiểu sâu việc hôm qua. Đó là xác nhận một lần nữa. Sư làm lễ lui ra. Vậy là Ngài trực tiếp được Mã Tổ xác nhận, đó là truyền tâm ấn.
Kỳ sau tái tham, Sư đứng hầu Mã Tổ, thấy phất tử ở góc giường, Sư hỏi: Tức đây dùng, lìa đây dùng? Mã Tổ bảo: Về sau ngươi mở miệng sẽ lấy cái gì vì người? Sư cầm phất tử dựng đứng. Mã Tổ hỏi: Tức đây dùng, lìa đây dùng? Sư để phất tử lại chỗ cũ. Mã Tổ nghiêm chỉnh hét một tiếng, đến ba ngày Sư còn điếc tai.
Đây là lần sau trở lại tham vấn, ngài Bá Trượng thấy cây phất tử, tức là cây chổi quét bụi, để trên bàn, Sư liền chỉ cây phất tử nói: Tức đây dùng hay lìa đây dùng? Nghĩa là tức cây phất tử đó mà dùng hay lìa cây phất tử dùng? Mã Tổ bảo: Về sau ngươi mở miệng sẽ lấy cái gì vì người? Tức là muốn dạy dỗ người thì lấy cái gì để chỉ dạy? Sư cầm cây phất tử dựng đứng, đó là dạy người. Chúng ta mới thấy sở trường của mình nơi vị thầy như thế nào, đến khi dạy người, mình cũng sử dụng thuật đó triệt để. Dựng đứng cây phất tử là chỉ cái gì? Có phải chỉ bầy vịt trời không? Đến khi Mã Tổ hỏi: tức đây dùng hay lìa đây dùng, Ngài liền để cây phất tử lại y chỗ cũ. Mã Tổ nghiêm chỉnh hét một tiếng, ba ngày còn điếc tai. Một tiếng hét đó, trong nhà Thiền gọi là thủ thuật đặc biệt, muôn đời không quên.
Như vậy chúng ta khi tu có tỉnh có thấy, nhưng tỉnh một lúc rồi quên. Muốn nhớ đời đời phải nhờ những thủ thuật hoặc đánh hoặc hét. Mã Tổ hét một tiếng điếc tai ba ngày, làm sao quên được. Nhớ tiếng hét là nhớ cái gì mình thấy, nhớ mãi không bao giờ quên. Thường giảng tới chỗ này, chúng tôi nói đông nói tây quanh co, chớ không có cách nào khác hơn.
Ngài Trần Thái Tông niêm: “ngàn mũi nhọn không bằng một nhát mai cùn”, tức là dù khéo dùng ngàn lời ngàn câu bén nhạy để giải thích cũng không bằng một tiếng hét, cũng như một nhát mai cùn có giá trị hơn cả ngàn mũi nhọn. Qua câu niêm này chúng ta đã thấy được toàn ý của bài.
Tụng:
Ngày trước xe, thơ chẳng cùng đồng,
Bốn bên dấy loạn tợ đàn ong.
Mã Tổ một phen vung kiếm bén,
Từ đây đường nẻo tin tức thông.
“Ngày trước xe, thơ chẳng cùng đồng.” Xe và thơ là hình tướng của chiếc xe cụ thể và hình vẽ trên giấy, tức hình tướng thật và nét vẽ không giống nhau. Thế nên:
“Bốn bên dấy loạn tợ đàn ong.” Khi chưa thấy, chưa sống được lẽ thật, lúc đó tâm chúng ta rối bời lăng xăng như đàn ong vỡ tổ.
“Mã Tổ một phen vung kiếm bén”, kiếm bén của Mã Tổ là tiếng hét.
“Từ đây đường nẻo tin tức thông.” Từ đó đường đi nẻo về và tin tức đều thông suốt.
Bài tụng của ngài Trần Thái Tông tán thán tiếng hét của Mã Tổ đã giúp cho ngài Bá Trượng thông suốt không còn bị chướng ngại nữa.
12. Cử: Quốc sư một ngày gọi thị giả ba lần. Thị giả ba lần dạ! Quốc sư nói: Ngỡ là ta phụ ngươi, ngược lại ngươi phụ ta.
Niêm: Như người uống nước, lạnh nóng tự biết.
Tụng: Dưới trên xướng họa xứng cùng hai,
Ý ấy so đâu biết ngắn dài.
Nhằm trước phơi bày gan ruột sạch,
Trong đây chỉ hứa tự mình hay.
Một hôm Quốc sư Huệ Trung gọi thị giả, thị giả dạ. Ngài gọi như vậy mà không nói thêm câu nào, ba lần gọi, thị giả đều ứng tiếng dạ ba lần. Cuối cùng Ngài nói: Tưởng là ta phụ ngươi, không ngờ ngươi phụ ta. Thị giả dạ ba lần mà phụ thầy ở chỗ nào?
Bài trước Mã Tổ chỉ cho ngài Bá Trượng tâm không sanh diệt qua con mắt. Chúng ta lâu nay thường lầm tưởng mình suy nghĩ mới biết, đâu ngờ thấy đã biết. Nếu thấy mà không biết thì làm sao nói người này trắng người kia đen, người này mặc áo vàng người kia mặc áo xanh. Biết trắng đen, biết xanh vàng mà nói không biết sao được. Nhưng cái biết đó không có suy nghĩ, không một chút máy động, đó mới thật là cái biết của mình. Vì vậy cái khéo của Thiền sư là không nói thẳng, không chỉ thẳng, mà nói từ cái này để chúng ta hiểu qua cái kia. Nhờ vậy chúng ta nhớ mãi.
Ngài Quốc sư Huệ Trung là đệ tử của Lục tổ Huệ Năng, mỗi lần Ngài gọi, thị giả dạ, coi như thầy trò tương ưng, thế mà cuối cùng Ngài nói: Tưởng là ta phụ ngươi, không ngờ ngươi phụ ta. Phụ ở chỗ nào? Không phải thầy gọi trò dạ là đủ, mà Ngài muốn chỉ cái gì khác nữa.
Niêm: “Như người uống nước, lạnh nóng tự biết.” Chỗ mình nhận ra, thấy được, giống như người uống nước lạnh nóng tự biết, khó nói được.
Tụng:
Dưới trên xướng họa, xứng cùng hai,
Ý ấy so đâu biết ngắn dài.
Nhằm trước phơi bày gan ruột sạch,
Trong đây chỉ hứa tự mình hay.
“Dưới trên xướng họa, xứng cùng hai.” Dưới là chú thị giả, trên là ngài Quốc sư Huệ Trung, hai thầy trò xướng họa là thầy gọi trò dạ.
“Ý ấy so đâu biết ngắn dài.” Lấy cái gì so sánh mà biết đây ngắn kia dài, vì nó không phải là cái so sánh.
“Nhằm trước phơi bày gan ruột sạch.” Thầy đã đem hết gan ruột phơi bày cho đệ tử, nếu đệ tử nhận biết thì biết, không thì thôi, chớ không làm sao nói được. Cho nên:
“Trong đây chỉ hứa tự mình hay.” Tự mình biết thôi, chớ cái đó giải bày không được. Chỗ chân thật đó, thầy chỉ một cách hết sức rõ ràng, cũng như đem hết cả gan ruột bày ra, thấy hay không là tự mình chớ không còn cách gì nữa.
Như vậy ngài Huệ Trung muốn trao cho chú thị giả cái gì? Trao cái sẵn có nơi mình, cái biết dạ đó! Gọi biết dạ ở miệng hay ở đâu? Không phải ở miệng.
13. Cử: Đại Qui nói: Câu có câu không như dây leo cây. Sơ Sơn hỏi: Cây ngã dây khô câu về chỗ nào? Đại Qui cười to ha hả!
Niêm: Nước chảy ắt về biển, trăng lặn chẳng rời trời.
Tụng: Sóng lặng yên rồi, trận gió thâu,
Uổng công hướng ngoại khổ tìm cầu.
Khối nghi cười nát thành trăm mảnh,
Từ đó mới phân đá với châu.
Đại Qui tức là ngài Đại An ở Qui Sơn. Ở Qui Sơn có hai vị Tổ nổi tiếng. Vị Tổ trước là ngài Linh Hựu, vị sau là ngài Đại An. Ngài Đại An là vị Tổ nói: Ta ở non Qui ba mươi năm chăn một con trâu.
Ngài Đại Qui nói: Câu có câu không như dây leo cây. Ngài Sơ Sơn hỏi: Khi cây ngã dây khô, câu về chỗ nào? Ngài Đại Qui cười to ha hả. Cười đó là đã trả lời chưa? Chúng ta luôn luôn có bệnh khi mở miệng nói đều kẹt ở hai bên, hoặc có không, hoặc phải quấy, hoặc tốt xấu. Nói có nói không là để chỉ chung cho tất cả những đối đãi.
Ngài Đại Qui muốn nói: Nếu mở miệng nói thuộc về có, không, chẳng khác nào dây bìm bìm leo trên cây, nghĩa là nương cây mà có dây leo, ngài Sơ Sơn bước ra hỏi: Cây ngã dây khô thì câu có câu không về chỗ nào? Tức là hết chỗ nương tựa, hết có hết không thì về đâu? Ngài Đại Qui cười ha hả, không nói thêm lời nào.
Niêm: “Nước chảy ắt về biển, trăng lặn chẳng rời trời.” Niêm thật là khéo. Dù cho tất cả nước trên nguồn đổ ầm ầm, nhưng rốt cuộc đều dồn về biển. Dù trăng có mọc có lặn, nhưng không rời bầu hư không. Như vậy khi đối đãi bặt rồi, nghĩa là nói có nói không đều dứt, thì giống như nước chảy về biển, như trăng lặn vẫn ở trong bầu trời, không về đâu.
Tụng:
Sóng lặng yên rồi trận gió thâu,
Uổng công hướng ngoại, khổ tìm cầu.
Khối nghi cười nát thành trăm mảnh,
Từ đó mới phân đá với châu.
“Sóng lặng yên rồi trận gió thâu”, khi nhìn xuống biển thấy sóng yên lặng thì lúc đó gió đã dừng. Sóng lặng gió dừng là để nói cái thấy hai bên đã hết, giống như cây ngã dây khô lúc ấy câu về chỗ nào?
“Uổng công hướng ngoại, khổ tìm cầu”, đến chỗ đó thì đừng tìm kiếm đâu nữa, tại sao? Vì giống như nước chảy về biển, như trăng chẳng rời trời, tuy thấy khuất nhưng đâu có mất, đừng tìm hỏi về đâu chi cho nhọc.
“Khối nghi cười nát thành trăm mảnh”, khi đang nghi ngờ nó đi về chỗ nào, thì cái cười ha hả của ngài Đại Qui làm cho tan nát khối nghi.
“Từ đó mới phân đá với châu”, tức là từ đó mới phân rành rẽ cái nào thuộc về châu ngọc, cái nào thuộc về đá sỏi, không còn lẫn lộn hỗn tạp nữa.
Tóm lại trong bài tụng này, ngài Trần Thái Tông đã giải thích rõ ràng vấn đề nói có nói không, hay nói phải nói quấy. Sở dĩ tâm chúng ta bất an là vì chạy theo phân biệt đối đãi có không, phải quấy. Khi tất cả những đối đãi dứt bặt thì còn cái gì? Nên nói: “Cây ngã bìm khô, câu về chỗ nào?” Ngài Đại Qui cười to, thấy dường như Ngài không trả lời, nhưng đã có trả lời rồi. Nếu hỏi về chỗ nào mà trả lời là không đúng, nên ngay đó là hét. Thay vì hét, ngài Đại Qui cười to là đủ, đó là đã trả lời mà không mắc kẹt hai bên.
Qua câu chuyện này, chúng ta thấy điểm đặc biệt trong nhà Thiền. Ngài Sơ Sơn tức là ngài Bố Đan, đệ tử của ngài Động Sơn Lương Giới. Khi hỏi: câu về chỗ nào, Ngài Đại Qui cười, ngài Sơ Sơn trách: Con đi đường xa cả ngàn dặm đến đây hỏi Hòa thượng, mà Hòa thượng không trả lời. Ngài Đại Qui liền lấy tiền ra: Thôi cho ông tiền về xe. Ngài Sơ Sơn không ngờ chính cái cười là đã trả lời, còn đòi hỏi chi nữa? Thế nên khi chúng ta đọc sách Thiền đừng suy gẫm, cứ lắng tâm rồi sẽ thấy cái hay thấm thía vô cùng.
14. Cử: Bá Trượng bảo: Thế nào là pháp không vì người nói? Nam Tuyền đáp: Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật.
Niêm: Ngàn Thánh tìm dấu y chẳng được,
Toàn thân ẩn tại đại hư không.
Tụng: Trước đây công án không lệch nghiêng,
Đối diện xem xem hội chăng liền.
Trong ngôi Phật pháp mời chẳng ở,
Đêm về như trước ngủ bờ lau.
Ngài Bá Trượng hỏi: “Thế nào là pháp không vì người nói?” Nghĩa là pháp không vì người nói là pháp gì?
Ngài Nam Tuyền đáp: “Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật.” Đó là pháp không vì người nói.
Niêm: “Ngàn Thánh tìm dấu y chẳng được, toàn thân ẩn tại đại hư không.”
Pháp không vì người nói, dù cho mắt của ngàn vị Thánh tìm dấu vết y cũng không được, tại sao? Vì y không có tướng mạo, biết đâu mà tìm. Toàn thân của pháp đó đang ẩn trong đại hư không, không thiếu vắng.
Tụng:
Trước đây công án không lệch nghiêng,
Đối diện xem xem hội chăng liền.
“Pháp không vì người nói” là một công án rất chu đáo, rất vẹn toàn. Hội hay không hội là ngay nơi đó, đừng suy nghĩ, đừng tìm kiếm nữa.
Trong ngôi Phật pháp mời chẳng ở,
Đêm về như trước ngủ bờ lau.
Nguyên văn chữ Hán là:
Phật pháp vị trung lưu bất trụ,
Dạ lai y cựu túc lô hoa.
Hai câu này thật là đẹp làm sao, đây là hai câu tôi đắc ý nhất.
Khi ngài Bá Trượng hỏi: pháp không vì người nói là pháp gì, Ngài Nam Tuyền đáp: “Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật.” Tâm, Phật, vật đều không phải, vậy là cái gì? Hai câu này diễn tả chỗ đó.
“Lưu bất trụ” là giữ lại, mời lại mà không ở, vì nếu ở thì hoặc là tâm, hoặc là Phật, nhưng chẳng phải tâm, chẳng phải Phật thì đâu còn ở trong ngôi Phật pháp. Cũng như thuở trước, đêm về đến bờ lau ngủ ngon lành, không cần phải có ngôi vị. Đây là diễn tả “ngộ liễu đồng vị ngộ”, nghĩa là ngộ rồi cũng đồng với khi chưa ngộ.
Vì chúng ta đang ở trong cảnh mê, nên Phật mới nói Ngài là giác, mê và giác đối nhau chỉ là phương tiện để chúng ta so sánh mà vươn lên. Còn cái chân thật là tâm không sanh diệt, tâm đó không phải là cái gì hết. Cho nên ngài Nam Nhạc Hoài Nhượng nói: “Nói một vật tức không trúng.” Nó không phải tâm, không phải Phật, cũng không phải vật, nó không phải là cái gì, nhưng không phải là không có. Nó không ở vị là tâm, là Phật, là pháp, là trí, là đạo, nó không bị lệ thuộc vào những từ ngữ, nhưng trước sau vẫn không thay đổi. Ngày xưa mệt mỏi đến ngủ bờ lau, nay mệt mỏi cũng đến bờ lau ngủ, nghĩa là thuở xưa chưa ngộ, ngày nay ngộ rồi cũng như nhau không khác. Không phải khi xưa mê làm chúng sanh thì mất cái chân thật, ngày nay ngộ làm Phật, làm Bồ-tát mới có cái chân thật. Tỉ dụ khi mê chạy theo ngoại cảnh, mắt vẫn thấy, tai vẫn nghe, nhưng mắt thấy mà không nhớ cái thấy, chỉ nhớ cảnh nhớ người, tai nghe mà không nhớ cái nghe, chỉ nhớ tiếng hay tiếng dở. Nay ngộ rồi, mắt thấy cảnh không dính với cảnh, tai nghe tiếng không kẹt với tiếng, tức là chúng ta đang sống với cái chân thật. Cái chân thật lúc mê vẫn y nhiên, lúc ngộ cũng vẫn y nhiên, không có thiếu vắng bao giờ, chỉ vì quên hay nhớ nó mà thành mê hay ngộ.
Trong kinh Lăng Nghiêm Phật chỉ rất thấu đáo, đức Phật đưa tay lên hỏi ngài A-nan: Ông thấy không? Ngài A-nan thưa: Bạch Thế Tôn, thấy. Đức Phật để tay xuống, lại hỏi: Ông thấy không? Ngài A-nan thưa: Bạch Thế Tôn, không. Ngài bị Phật quở: Tay là thuộc về cảnh, cảnh bên ngoài khi có khi không, cái thấy của ông có lúc nào vắng đâu! Như vậy đức Phật đã chỉ quá rõ ràng, còn Thiền sư chỉ nói gọn thôi.
Đức Phật lại bảo ngài La-hầu-la đánh chuông và hỏi ngài A-nan: Ông nghe không? Ngài thưa: Bạch Thế Tôn, nghe. Khi tiếng chuông lặng rồi, Phật hỏi: Ông nghe không? Ngài thưa: Bạch Thế Tôn, không nghe. Phật quở thêm một lần nữa: Tiếng chuông khi có khi không, còn cái nghe của ông có lúc nào không đâu. Nếu ông không nghe thì làm sao biết được không có tiếng chuông. Có tiếng chuông thì nghe có, không tiếng chuông thì nghe không, tại sao nói không nghe?
Phật kết luận đó là do mê lầm, chúng sanh quên mình theo vật. Theo vật là quên cái thấy mà theo tay, quên cái nghe mà theo tiếng. Hiện giờ tất cả chúng ta đang quên mình theo vật nên gọi là mê, còn nhớ mình quên vật gọi là giác, thật đơn giản làm sao! Cái chân thật không bao giờ thay đổi, cái nghe cái thấy trước sau như một, nhưng khác nhau chỉ có mê và giác thôi. Mê là theo vật thì bị vật chuyển dẫn đi trong luân hồi, giác là nhớ mình thì được tự do tự tại tức là giải thoát.
Lâu nay chúng ta chỉ biết cái bên ngoài, cho nên bao nhiêu người tu cứ nghĩ muốn thành Phật là phải có thần thông, phải phát hào quang..., như vậy ngồi thiền mới có giá trị, mới có kết quả. Còn ngồi im lặng đếm hơi thở, thấy vọng không theo, sao tầm thường quá, vậy nói tu là tu cái gì? Nhưng không ngờ trọng tâm của việc tu là không đuổi theo sáu trần thì sáu trần không lôi mình trầm luân trong sanh tử, không đuổi theo sáu trần thì được tự do giải thoát. Muốn đừng dính mắc sáu trần thì phải xoay lại nhìn mình, tức là ngồi ngó xuống, nhìn hơi thở, coi niệm dấy khởi thế nào. Biết quay lại mình thì không bị ngoại cảnh chi phối.
Thật ra việc tu hết sức đơn giản, nhưng vì chúng ta không biết nên trở thành phức tạp. Ngồi tu thì muốn có thần thông biết được tâm người để nói cho họ phục, muốn có thần thông mầu nhiệm để thiên hạ quí kính cúng dường, nên trở thành tham danh tham lợi, rồi cũng bị trầm luân. Cái chân thật thì khô khan lạnh nhạt, chân lý lúc nào cũng đơn giản. Còn những chuyện huyền hoặc nhiệm mầu không phải là chân lý, chỉ là những giả tưởng mà thiên hạ lại ham thích, cho nên suốt đời con người bị cuồng loạn trong mê hoặc. Thí dụ chúng ta nhìn cảnh vật ở đây, nhìn quen cũng thấy vui nhè nhẹ. Còn nếu có ai tới tổ chức đóng tuồng hay đóng kịch, cũng cảnh này nhưng đem ra chiếu người ta lại say mê. Vì những cảnh đóng kịch có vui buồn hấp dẫn hơn, còn cảnh thật dù quí đẹp, người ta vẫn xem thường. Cái giả dối lúc nào cũng hấp dẫn, từ lời nói đến hình dáng tô điểm bịp lừa, nên ở đời những gì hoa hòe lừa bịp người ta lại thích. Nhìn kỹ lại cuộc sống ở thế gian đều là trò lừa dối nhau như vậy. Con người đang chạy theo những ảo ảnh giả dối mà không biết lại cho là vui, còn cái chân thật khô nhạt quá nên không có gì hấp dẫn.
Trong ngôi Phật pháp mời chẳng ở,
Đêm về như trước ngủ bờ lau.
Hai câu này dễ thương mà đơn giản làm sao, để nói ngộ rồi đồng với chưa ngộ. Hiểu như vậy mới thấy cái hay của đạo, nếu không, sao thấy nó tầm thường quá.
Hiện nay người tu thường mơ ước thành Phật, thành Tổ ngồi tòa sen báu có phóng hào quang. Nếu thấy tượng Phật không sơn vẽ khéo thì không thích, nên gần đây các Phật tử tô điểm tượng Phật thành môi son má phấn, mày tằm mắt phượng, biến hình tượng Phật thành sở thích của mình, đó là chuyện của người thế gian. Còn chúng ta tu tức là sống trở lại với tâm chưa bao giờ sanh diệt, tâm đó là tâm chân thật của mình. Sống với nó chúng ta mới được giải thoát sanh tử, đó là Phật chớ không có gì lạ.
15. Cử:Nam Tuyền nói: Tâm chẳng phải Phật, trí chẳng phải đạo.
Niêm: Uống cạn huyền vi lý, đường về dưới trăng đi.
Tụng: Muôn tiếng trùng lặng, sao Đẩu dời,
Bầu trời trong suốt gợn mây vơi.
Nương tựa gậy lê lên gác ngắm,
Yên yên lặng lặng thật thảnh thơi.
Ngài Nam Tuyền nói: “Tâm chẳng phải Phật, trí chẳng phải đạo.”(vì có chỗ nói: tức tâm tức Phật) Nếu còn thấy tâm, Phật, trí, đạo là thật là còn trong đối đãi. Muốn dứt bặt các đối đãi nên Ngài nói: Tâm chẳng phải Phật, trí chẳng phải đạo. Thường khi chúng ta nói đạo là trí tuệ Bát-nhã, nhưng ở đây Ngài nói trí cũng không phải đạo.
Niêm: “Uống cạn huyền vi lý, đường về dưới trăng đi.” Lý huyền vi là Tức tâm tức Phật, lý này phải cho cạn đi, nghĩa là nếu dứt hết những nghĩa lý nhiệm mầu, tâm mình trở về cái chân thật, lúc ấy chúng ta sẽ đi dưới trăng sáng trở về quê hương. Như vậy người khôn ngoan trong nhà đạo khác với người khôn ở thế gian. Ở thế gian ai lý luận giỏi, biện luận tài, cho là người khôn. Còn trong đạo phải bặt những lý luận, khi ấy một mình đi dưới ánh trăng sáng trở về quê hương, hình ảnh này thật đẹp.
Tụng:
Muôn tiếng trùng lặng, sao Đẩu dời,
Bầu trời trong suốt gợn mây vơi.
Canh năm trời gần sáng, tiếng côn trùng lặng im, chỉ một bầu trời trong vắt không một gợn mây.
Nương tựa gậy lê lên gác ngắm,
Yên yên lặng lặng thật thảnh thơi.
Nương gậy bằng gỗ lê, bước lên lầu ngắm nhìn bầu trời trong. Những tâm xao xuyến loạn động đuổi theo lý này ý kia đã dừng bặt, chỉ còn một tâm thanh tịnh, khi ấy chúng ta nhìn thấy cả một bầu trời yên lặng thảnh thơi, không còn gì vướng bận trong lòng. Đó là chỉ chỗ “Tâm chẳng phải Phật, trí chẳng phải đạo” vậy.
16. Cử: Sau khi Lâm Tế khai hóa chỉ dùng gậy hét dạy đồ chúng. Vừa thấy Tăng vào cửa liền hét.
Niêm: Mùng năm tháng năm giờ ngọ viết,
Miệng đỏ lưỡi độc tận tiêu trừ.
Tụng: Vào nhà liền hét muốn làm chi?
Dẫn được cháu con tỉnh giấc mê.
Chẳng phải sấm xuân vang một tiếng,
Làm sao vỏ hạt được nẩy mầm.
Đây là cách dạy đồ chúng của Tổ Lâm Tế. Vừa thấy Tăng vào cửa, chưa cần hỏi han gì, Ngài liền hét một tiếng.
Niêm:
Mùng năm tháng năm giờ ngọ viết,
Miệng đỏ lưỡi độc tận tiêu trừ.
Theo tục lệ ông bà ngày xưa, vào ngày mùng năm tháng năm đúng giờ ngọ, viết lá bùa bát quái treo trước cửa nhà, thì tất cả tai nạn đều qua hết. Như vậy để nói một tiếng hét của ngài Lâm Tế giống như lá bùa viết vào trưa ngày mùng năm tháng năm, tiêu trừ được tất cả tai nạn.
Tụng:
Vào nhà liền hét muốn làm chi?
Dẫn được cháu con tỉnh giấc mê.
Tăng vừa bước vào nhà tham vấn liền bị hét. Tiếng hét đó là muốn dẫn con cháu tỉnh được giấc mê. Tại sao? Vì lời nói dù hay khéo đến đâu cũng gợi cho người suy gẫm, còn suy gẫm là chìm trong mê. Một tiếng hét làm giựt mình không còn gì suy nghĩ, chính là để đánh thức giấc mê cho con cháu.
Chẳng phải sấm xuân vang một tiếng,
Làm sao vỏ hạt được nẩy mầm.
Đây là khen ngợi tiếng hét của ngài Lâm Tế vang lên như tiếng sấm cuối xuân, nhờ đó những hạt giống dưới lòng đất từ từ nẩy mầm. Cũng vậy nhờ tiếng hét mà hạt giống Bồ-đề dễ nẩy mầm nơi lòng người.
17. Cử: Nam Tuyền nói: Tâm bình thường là đạo.
Niêm: Lạnh nói là lạnh, nóng nói là nóng.
Tụng: Rìu búa không cần, ngọc trắng tinh,
Đâu do mài giũa để cầu tân.
Đường về chẳng bước nhà vẫn tới,
Trao kẻ trèo non buông thõng tay.
Triệu Châu đến hỏi Thiền sư Nam Tuyền: Thế nào là đạo? Ngài đáp: “Tâm bình thường là đạo.”
Tâm bình thường là tâm gì? Có phải là chúng ta ngồi suy nghĩ trưa nay nấu món ăn gì, chiều nay làm việc gì, không tính chuyện trên trời trên mây, vậy có phải tâm bình thường chưa? - Chưa phải. Tâm bình thường không phải là nghĩ theo chuyện thông thường ở thế gian.
Niêm: “Lạnh nói là lạnh, nóng nói là nóng.” Nói bao nhiêu đó là đủ, nó thế nào nói thế ấy, không nói thêm điều gì, đó là tâm bình thường.
Còn nói lạnh khó chịu quá hay nóng bực bội quá, không phải là bình thường, vì có phiền não gá vào trong đó. Tỉ dụ hôm nào trời lạnh, nói bữa nay trời lạnh là đủ, nếu nói thêm: bữa nay lạnh muốn run, thì đã qua nghĩa khác, vì có gá cái ta trong đó, không còn là sự thật của cái lạnh nữa. Nóng cũng vậy, nếu nói hôm nay trời nóng là đủ, không nói thêm nóng chịu không nổi, muốn nhức đầu, đó là qua ý khác rồi. Nghĩa là lạnh nóng ở ngoài đã đồng hóa với cái ta, nên chúng ta bực bội không thích. Còn nếu lạnh nóng như thế nào nói như thế ấy thì không có gì bực bội khó chịu. Thế nên lời niêm rất là hay: Tâm bình thường là lạnh nói lạnh, nóng nói nóng, đó là đủ rồi.
Hằng ngày tâm chúng ta có bình thường không? Chúng ta làm việc gì cũng muốn như ý, cũng theo sở thích của mình. Thí dụ gần nhất như trong chùa nuôi mấy con chó, tối đến có trộm vào mà chó không sủa. Sáng lại chó bị đánh vì tội không giữ chùa. Vì sao chúng ta không tự trách mình, các con chó đâu có biết gì. Chúng ta nuôi chó thì nuôi, còn sủa hay không là chuyện của nó. Thế nên tất cả những gì chung quanh, chúng ta đều bắt lệ thuộc vào cái ta, và nhìn muôn vật bằng bản ngã phóng đại ra, nên không thấy được lẽ thật. Người tu bắt buộc phải thấy được lẽ thật, phàm làm việc gì, nhìn vật gì cũng qua lẽ thật, không qua bản ngã. Vì bản ngã nên chúng ta luôn luôn có niệm thương niệm ghét, nếu thấy người nào không hợp với bản ngã của mình thì nói người ấy dễ ghét, nếu hợp với bản ngã của mình thì bảo dễ thương. Vậy bản ngã là do huân tập, huân tập cái gì thì nó theo cái ấy. Thí dụ như chúng ta huân tập theo cái nhìn của Đông phương thì thấy người nào có vẻ Đông phương mình ưa, huân tập theo Tây phương thì thấy vẻ gì hợp với Tây phương mình thích. Như vậy ưa thích theo huân tập đâu phải là thật, thế mà suốt ngày chúng ta sống theo huân tập, bị nó chi phối nên chúng ta phiền não khổ đau mãi. Chúng ta tu là phải thấy như thật, tôi đã giảng chữ như thị, tức là pháp của Phật là như thế, không có cái khác, có khác là tại chúng ta tô điểm thêm. Thế nên lạnh nói lạnh, nóng nói nóng.
Tụng:
Rìu búa không cần, ngọc trắng tinh,
Đâu do mài giũa để cầu tân.
Nói tâm bình thường là đạo, nghĩa là đạo đã sẵn trong tâm bình thường, giống như hòn ngọc trắng tinh đã sẵn nơi mình, đâu cần búa rìu đẽo đục mới trắng, cũng không do mài giũa thành mới, vì nó đã sẵn đẹp rồi. Không cần phải đục đẽo mài giũa, mà tu là phải mài giũa, đẽo đục, như thế có mâu thuẫn hay không? Tỉ dụ tượng Phật gỗ phải từ khúc gỗ trầm đục đẽo mới thành, nếu để khúc gỗ y nguyên trên bàn thì đâu có ai quì lạy. Tu là phải mài giũa, tuy ai cũng sẵn tâm bình thường, nhưng chúng ta quen tập theo thói bất bình thường, giống như một người trước kia tỉnh táo sau sanh ra cuồng loạn thì phải chạy chữa thuốc men, để trở lại bình thường. Cũng như vậy, sở dĩ chúng ta phải tu là để đưa tâm mình trở lại bình thường, vì hiện giờ chúng ta ít nhiều gì cũng đang là những kẻ bất bình thường, cần phải nhờ thuốc chữa trị mới lành bệnh.
Tâm bình thường là cái sẵn có, không thêm cái gì mới, chỉ hết bệnh trở về tình trạng bình thường cũ. Nên nói chỗ này không phải trau dồi, mài giũa mà tự nó là ngọc trắng rồi.
Đường về chẳng bước nhà vẫn tới,
Trao kẻ trèn non buông thõng tay.
Không cần bước đi mà vẫn tới nhà. Có khi Phật và chư Tổ nói: Đường luân hồi xa xôi diệu vợi, muốn trở về thật là khó. Nhưng có chỗ lại nói: Dưới gót chân ông, chớ không đâu xa. Tuy không phải xa mà thật ra cũng không phải gần. Nếu bỏ quên lối về nhà chạy lang thang mãi, dù cho nhà ở gần cũng thành xa. Nếu biết quay trở về thì tuy nói xa, thật ra ở ngay trước mặt, tức là rất gần. Thế nên không cần bước đi đâu, thay vì phóng ra chỉ quay trở lại, đó là trở về; từ chuyên môn gọi là hồi đầu thị ngạn, tức là xoay đầu trở lại là bờ này, là nhà cửa của mình, đơn giản làm sao! Như vậy gần xa là do thói quen, quen phóng ra thì thấy xa, biết xoay trở lại là bờ, chớ không có gì.
“Trao kẻ trèo non buông thõng tay”, không cần bước mà vẫn tới nhà, là chỉ có người trèo non mà buông thõng tay tự tại. Nếu phải vịn từ cục đá, bám từng rễ cây để bò lên thì chắc về nhà phải hơi lâu. Buông thõng tay mà trèo non được thì nhà ở một bên chớ không đâu xa, cách nhìn này thật là hay, thật là cụ thể.
18. Cử: Triệu Châu nói: Mọi người bị mười hai thời sai khiến, Lão tăng sai khiến được mười hai thời.
Niêm: Cậy thế dối người, không nơi căn cứ.
Tụng: Lão này hay khiển mười hai thời,
Rồng dữ cọp hung thảy được thuần.
Cần phương chỉ sắt thành vàng thật,
Chẳng để cho người có việc nghe.
Nhân có vị Tăng hỏi: Trong mười hai giờ dụng tâm như thế nào? Ý muốn hỏi trong mười hai giờ mình phải tu như thế nào cho đúng với tinh thần đạo. Ngài Triệu Châu trả lời: “Mọi người bị mười hai thời sai khiến, Lão tăng sai khiến được mười hai thời.” Như hiện giờ chúng ta có bị mười hai thời sai khiến không, hay là sai khiến được mười hai thời? Nhìn chừng đồng hồ coi mấy giờ, cho đến lúc ngồi thiền cũng nhìn đồng hồ, như vậy từ sáng đến trưa, từ trưa đến chiều, chúng ta bị đồng hồ sai khiến, tức là bị mười hai thời sai khiến, còn ngài Triệu Châu sai khiến được mười hai thời.
Niêm: “Cậy thế dối người, không nơi căn cứ.” Ý muốn nói ngài Triệu Châu ỷ mình là người giỏi nên dối người không nơi căn cứ. Niêm như vậy có đúng không? Mười hai thời chỉ là giả định của con người chớ không có thật, làm sao sai khiến nó được?
Tụng:
Lão này hay khiển mười hai thời,
Rồng dữ cọp hung thảy được thuần.
Sai khiến được mười hai thời nghĩa là người đời chạy theo thời gian từng giờ từng phút, còn Ngài không dính mắc gì với thời gian. Nếu suốt ngày không bận bịu với thời gian tức là không trông đợi không mong chờ dù cho rồng dữ cọp hung cũng được thuần thục. Còn chúng ta đang trông đợi mong chờ nên khiển không nổi rồng dữ cọp hung. Sáng mong trưa, trưa đợi chiều, tâm mong chờ là hư dối làm cho mình mệt mỏi. Người không bị thời gian chi phối là người không còn tâm mong chờ, đó tức là tâm chân thật thì rồng dữ cọp hung trong tâm không còn hung hăng nữa.
Cần phương chỉ sắt thành vàng thật,
Chẳng để cho người có việc nghe.
Muốn được diệu thuật chỉ sắt biến thành vàng thì không cho người có việc nghe, tức là ai còn hữu sự thì đừng mong được cái đó. Diệu thuật này chỉ có ở con người vô sự. Chúng ta chẳng những hữu sự mà còn đa sự nữa, nên không được nghe thuật kỳ diệu đó. Tại sao đa sự? Việc trong nhà mình, trong bản thân mình nhớ nghe cũng đã nhiều rồi, mà chuyện hàng xóm đâu đâu cũng muốn nghe, lại kể chuyện năm trên năm dưới cho người khác, như vậy có phải là đa sự không? Vì thế nên cả ngày tâm loạn tưởng điên đảo không phút nào yên. Câu kết luận chỉ cho chúng ta thấy muốn sử dụng được mười hai giờ chỉ có người vô sự, nếu còn đa sự thì không bao giờ sử dụng được.
19. Cử: Tăng hỏi Lâm Tế: Thế nào là vô vị chân nhân? Lâm Tế đáp: Cục cứt khô.
Niêm: Bắn sẻ mất châu, ném chuột nhơ đồ.
Tụng: Vô vị chân nhân cục cứt khô,
Do người Thích tử mất gia phong.
Nhìn xuống xem xem, biết chẳng biết,
Con trâu vào biển dấu vết không.
Ngài Lâm Tế nói: Tất cả chúng ta đều có vô vị chân nhân ra vào ở ngay nơi mặt chớ không đâu xa. Vô vị chân nhân tức là con người chân thật không có ngôi vị, không có chỗ nơi. Câu tôi đã giảng: trong ngôi Phật pháp mời không ở, đó là chỉ người chân thật không ngôi vị.
Nhân có Tăng hỏi: “Thế nào là vô vị chân nhân? Ngài Lâm Tế đáp: Cục cứt khô.” Ngài đáp nghe thô tục quá, sao lại được khen hay? Nói câu đó chúng ta không còn gì để suy nghĩ. Ngay đó tâm mình đã lặng mà mình đâu có biết. Cứ nhớ sao thô quá, đó là khởi vọng tưởng điên đảo, nếu không suy nghĩ là vô vị chân nhân. Thành ra trả lời mà không trả lời gì cả. Hỏi một đàng: Thế nào là vô vị chân nhân? Lại đáp một ngả: Cục cứt khô. Nghe câu đáp, người hỏi dứt hết tâm suy gẫm nghĩ tính, không còn gì so sánh. Câu đáp đó là câu sống (họat ngữ), câu đặc biệt trong nhà Thiền.
Niêm: “Bắn sẻ mất châu, ném chuột nhơ đồ.” Nghĩa là vì chuyện nhỏ như bắn chim sẻ mà mất hạt châu, muốn đuổi chuột làm nhơ đồ quí. Đó là nói câu đáp hơi thô tục một chút.
Tụng:
Vô vị chân nhân cục cứt khô,
Do người Thích tử mất gia phong.
Hỏi vô vị chân nhân, lại đáp cục cứt khô là vì người Thích tử không biết vô vị chân nhân là gì, nên buộc lòng Ngài phải đáp như vậy để họ giựt mình thức tỉnh.
Nhìn xuống xem xem biết chẳng biết,
Con trâu vào biển dấu vết không.
Ngay nơi đó mình nhìn thẳng xem thử có biết hay không. Nếu xem rồi mới thấy chính câu trả lời chỉ cho mình cái chân thật rõ ràng, mà không có gì để suy gẫm, các vọng tưởng mê lầm đều dứt bặt, giống như con trâu nhảy ùm xuống biển không còn một chút dấu vết. Trái lại nếu giải thích vô vị chân nhân là một con người chân thật không ngôi vị, sạch hết những phiền não vọng tưởng v.v... làm người nghe suy gẫm đủ điều, như thế là dẫn họ đi trong mê lầm loạn tưởng.
20. Cử: Triệu Châu nói: Khám phá bà già ở Ngũ Đài Sơn xong.
Niêm: Ngũ nghịch nghe sấm, chẳng cho bịt tai.
Tụng: Khảy móng Đài Sơn hết nói ngoa,
Chẳng phiền bước tới được về nhà.
Can qua chẳng động lòng người phục,
Gươm bén đâu cần ra hộp ngà.
Nguyên câu chuyện như sau: Có bà già ở gần đường đi Ngũ Đài Sơn, một vị Tăng tìm đường lên núi mà nghi không biết có đúng không, gặp bà già mới hỏi: Đường Ngũ Đài Sơn đi lối nào? Bà đáp: Đi thẳng. Tăng vừa đi, bà nói: Khéo, ông Thầy này lại đi thế ấy. Vị Tăng nghe, không hiểu bà muốn nói gì, mới về thưa lại ngài Triệu Châu. Ngài bảo: Để tôi lên khám phá bà già. Ngài đến gặp bà cũng hỏi: Đường nào đi Ngũ Đài Sơn? Bà nói: Đi thẳng. Ngài bắt đầu đi, bà già cũng nói: Khéo, ông Thầy này lại đi thế ấy. Khi trở về, Ngài tuyên bố giữa chúng: Tôi đã khám phá bà già ở Ngũ Đài Sơn rồi. Vậy Ngài khám phá cách nào? Đó là nghi vấn mà lâu nay chúng ta đặt ra.
Niêm: “Ngũ nghịch nghe sấm, chẳng cho bịt tai.” Đây là ý gì? Trong kinh nói: Người phạm tội ngũ nghịch phải đọa địa ngục. Cũng có người nói: Người phạm tội ngũ nghịch có thể bị trời đánh, vì vậy họ rất sợ sấm. Tội ngũ nghịch là: giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, phá hòa hợp Tăng, làm thân Phật ra máu. Nếu phạm tội ngũ nghịch, mà sấm nổ không cho bịt tai, tức là không cho sợ. Ý nói ông Tăng tìm đường lên Ngũ Đài Sơn, ông nghi không biết có đúng đường không, nên hỏi bà già. Nghe bà bảo: đi thẳng, thì ông tin ông đi. Nhưng bà nói: Lại đi thế ấy. Như vậy làm cho người đã nghi lại thêm nghi. Vì có nghi mới hỏi, hỏi rồi lại thêm nghi, giống như người phạm tội ngũ nghịch rất sợ sấm, đó là cái nghi trước. Nhưng khi nghe sấm nổ, không cho bịt tai, lại càng sợ thêm, tức là càng thêm nghi. Đó là thuật khéo của bà già.
Bài tụng nói lên ý của bà và của ngài Triệu Châu:
Khảy móng Đài Sơn hết nói ngoa,
Chẳng phiền bước tới được về nhà.
Chỉ trong khảy móng tay thì bà già ở Ngũ Đài Sơn hết nói ngoa, tức là hết nói gạt để người ta nghi nữa. Vì ngài Triệu Châu nói đã khám phá bà già rồi, không cần suy nghĩ tìm kiếm cũng về tới tận nơi.
Can qua chẳng động lòng người phục,
Gươm bén đâu cần ra hộp ngà.
Thế nên không cần phải có chiến trường mà đã chinh phục được người. Có gươm bén nhưng không cần mở hộp đem ra dùng, mà lòng người đã qui phục.
Tuy ngài Triệu Châu nói khám phá bà già, nhưng sự thật Ngài chỉ hỏi, bà trả lời mà nói đã khám phá rồi là để cho người yên lòng không còn thắc mắc. Đó là chỉ bà già không phải người tầm thường, bà chỉ cho mình đi thẳng. Nhưng chúng ta cứ tưởng đi thẳng là tới Ngũ Đài Sơn, không ngờ bà muốn chỉ thẳng cái mình sẵn có, vị Tăng không biết việc này nên cắm đầu đi thẳng lên Ngũ Đài Sơn. Thế nên bà già nói lại: Khéo, ông Thầy lại đi thế ấy. Đó là lối nói ngoa, không phải nói thật. Nhưng khi ngài Triệu Châu đến thì lời nói ngoa hết, ngay đó liền thấy được nhà. Như thế không cần lý luận, không cần tranh đấu mà đã hàng phục được người, cũng như gươm bén không cần ra khỏi hộp ngà mà giặc giã đều qui hàng. Đó là thuật khéo của ngài Triệu Châu.
Như thế chúng ta mới thấy những bà già bán bánh ở dọc đường khi xưa rất là kỳ đặc, làm các vị Tăng phải mệt đầu. Có nhiều bà già trông rất xoàng xĩnh mà vẫn biết đạo chớ không phải thường. Không phải chỉ có người xuất gia học đạo lâu năm mới hay, đừng tưởng lầm như vậy. Dù ở giai cấp nào hình thức nào, người khéo nhận khéo thấy khéo biết đường về đều là hay cả.
Ngài Trần Thái Tông quả là một nhà vua kỳ đặc, đa đoan việc nhà việc nước mà hiểu đạo hiểu Thiền thật cao siêu. Còn chúng ta hiện nay rảnh rang trăm bề mà thấy đạo cạn cợt ở ngoài da, nghĩ có hổ thẹn không? Càng hổ thẹn chúng ta càng phải noi gương Ngài cố gắng nỗ lực tu hành, đừng để thua kém quá xa.
21. Cử: Triệu Châu nói: Phật vàng không độ được lò đúc, Phật gỗ không độ được lửa, Phật đất không độ được nước, Phật thật ngồi trong nhà.
Niêm: Núi là núi nước là nước, Phật ở chỗ nào?
Tụng: Trên đồ Võng Xuyên xếp thành hình,
Ngày trước Vương Duy được nổi danh.
Uổng phí mực son nơi khó vẽ,
Trong không trăng sáng cùng gió lành.
Ngài “Triệu Châu nói: Phật vàng không độ được lò đúc, Phật gỗ không độ được lửa, Phật đất không độ được nước, Phật thật ngồi trong nhà.” Câu này rất dễ hiểu. Đến chùa thấy Phật vàng chúng ta liền quì lạy nhưng Phật vàng để vào lò đúc thì chảy nên không độ được lò đúc, trái lại lò đúc độ được Phật vàng! Phật gỗ thỉnh vào lửa cũng cháy nên không độ được lửa mà lửa độ Phật gỗ. Phật đất gặp nước cũng rã nên không độ được nước. Nay có Phật xi măng cũng không độ được búa! Như vậy những vị Phật đó đều không có khả năng độ, chỉ có Phật thật ngồi trong nhà, chúng ta lại quên. Ngài Triệu Châu nói trắng ra không một chút giấu giếm để cảnh tỉnh những người tu chỉ nặng hình thức bên ngoài, thấy Phật bên ngoài thì tha thiết đảnh lễ cầu khẩn, không đoái đến Phật của mình đang ngồi ở trong. Phật bên ngoài chỉ là Phật vàng, Phật gỗ, Phật đất, còn Phật bên trong mới là Phật thật. Chúng ta tha thiết lễ bái cúng dường Phật bên ngoài, có được phước chỉ là phước sanh diệt, phước thật là trở về Phật thật của mình. Phật là giác. Phật vàng, Phật gỗ không có giác, chỉ Phật của tự tâm mới giác, nhưng thế gian không biết, chỉ biết những Phật bên ngoài, vậy là nhớ bên ngoài mà quên mình.
Niêm: “Núi là núi, nước là nước, Phật ở chỗ nào” mà nói Phật ngồi ở trong? Phật đó đối với cảnh núi là núi, nước là nước, theo tông Lâm Tế là Vô vị chân nhân, người không có ngôi vị, nếu nói ngồi ở trong là hơi kẹt. Thế nên ngài Trần Thái Tông hỏi Phật ở chỗ nào, ý nói Phật thật không có chỗ nơi, nói có chỗ là đã sai rồi.
Tụng:
Trên đồ Võng Xuyên xếp thành hình,
Ngày trước Vương Duy được nổi danh.
Uổng phí mực son nơi khó vẽ,
Trong không trăng sáng cùng gió lành.
Võng Xuyên là phong cảnh đẹp ở huyện Lam Điền tỉnh Thiểm Tây.
Vương Duy là một họa sĩ nổi tiếng đời Đường, ông vẽ cảnh Võng Xuyên, đem trưng bày, mọi người đều tán thán nên được nổi danh. Cảnh Võng Xuyên được diễn tả bằng mực bằng son, nhưng Phật thật ngồi ở trong không có hình tướng, dầu tốn bao nhiêu mực, bao nhiêu son cũng không thể vẽ được. Muốn thấy Phật thật phải làm sao? “Trong không trăng sáng cùng gió lành.” Chỉ nhìn trong bầu hư không, thấy trăng sáng rỡ cùng gió mát, là thấy được Phật ở trong. Như vậy Phật ngồi ở trong chỉ là một lối nói chớ chưa đúng lẽ thật, vì nếu còn thấy trong ngoài, thấy chỗ nơi là chưa thấy Phật thật. Ngài Trần Thái Tông khéo dùng hình ảnh gió mát và ánh trăng sáng ngời trong hư không để diễn tả vị Phật không hình tướng, không chỗ nơi nhưng lúc nào cũng trong sáng, cũng làm mát mẻ mọi người.
22. Cử: Triệu Châu nói: Tôi ở Thanh Châu may một chiếc áo vải nặng bảy cân.
Niêm: Trấn Châu củ cải còn thể được,
Thanh Châu áo vải lại phiền người.
Tụng: Một manh áo vải thật lạ thường,
Tùng Thẩm không màng chẳng cất rương.
Trong đây nghĩ nghị chia cân lượng,
Cười ngất nhà đông Mạnh Bát Lang.
Qua bài trên (21) ngài Triệu Châu nói về Phật, chúng ta hiểu được. Trong bài này, khi vị Tăng hỏi thế nào là Phật, thông thường câu đáp là: Người giác ngộ gọi là Phật, nhưng với tư cách nhà Thiền ngài Triệu Châu trả lời: “Tôi ở Thanh Châu may một chiếc áo vải nặng bảy cân.” Khi nghe câu này chúng ta không còn lý lẽ gì để cho tâm đuổi theo. Nó không có một chút ý vị, nhưng những câu như thế trong nhà Thiền lại khen hay. Tại sao? Khi giải thích Phật như thế này v.v... là để người nghe đuổi theo phân biệt suy xét. Nếu đuổi theo phân biệt thì không thấy được Phật, chưa thật hiểu Phật. Hiện nay nếu ai hỏi thế nào là Phật, chúng ta có thể trả lời: Tôi ở Trúc Lâm may chiếc áo vải nặng ba ký. Người nghe thấy như chúng ta trả lời lạc đề, không chút dính dáng với câu hỏi, nhưng sự thật là trả lời rất thiết thực, vì nói như thế thì dứt suy nghĩ, ngay đó là thấy Phật. Sở dĩ chúng ta không thấy Phật vì niệm suy nghĩ phân biệt làm Phật mình bị khuất lấp. Câu trả lời không cho một niệm nào khởi, đó là chỉ Phật rõ ràng, nhưng thế gian không bằng lòng vì thấy khó hiểu quá. Sự thật đâu cho hiểu mà nói khó hay dễ, nghĩa là nghe mà không cho hiểu, nếu nhận định được thì thấy, nhận định không ra thì không biết gì, khỏi suy nghĩ. Đó là câu đặc biệt nên ngài Trần Thái Tông khen.
Niêm:
Trấn Châu củ cải còn thể được,
Thanh Châu áo vải lại phiền người.
Một lần có người tới hỏi ngài Triệu Châu: Thế nào là Phật? Ngài đáp: Ở Trấn Châu củ cải to. Nay Ngài lại đáp: Ở Thanh Châu, áo vải nặng bảy cân, nên lời bình: Nếu nói ở Trấn Châu củ cải to còn có thể được, nay nói ở Thanh Châu áo vải nặng bảy cân thật làm phiền người. Như thế là thầm ý khen.
Tụng:
Một manh áo vải thật lạ thường,
Tùng Thẩm không màng chẳng cất rương.
Trong đây nghĩ nghị chia cân lượng,
Cười ngất nhà đông Mạnh Bát Lang.
Bài tụng rất hay. Nói áo vải nặng bảy cân là một lối nói lạ thường. Chiếc áo quí, Tùng Thẩm (tức Triệu Châu) không cất vào rương lại đem khoe trình cho thiên hạ thấy. Đây là hai câu tán thán ý nghĩa ngài Triệu Châu nói chiếc áo vải nặng bảy cân.
Trong đây nghĩ nghị chia cân lượng,
Cười ngất nhà đông Mạnh Bát Lang.
Mạnh Bát Lang là tên một gã ngốc ở Trung Hoa, thường hay dùng để chỉ những kẻ si ngốc. Nếu nghe câu đáp của ngài Triệu Châu rồi suy nghĩ phân chia cân lượng nặng bảy cân, ba cân v.v... thì quả là một gã ngốc ở nhà đông đáng cho người ta cười ngất.
23. Cử: Vị Tăng hỏi Triệu Châu: Con chó có Phật tánh không? Triệu Châu đáp: Không. Tăng lại hỏi, Triệu Châu đáp: Có.
Niêm: Lấy hai so một.
Tụng: Hỏi ngay ở trước, đáp có không,
Bảo thẳng ngay lời dứt nhóm ngông.
Một đời tự phụ người tài giỏi,
Thế ấy vẫn là chẳng trượng phu.
Trong Ngữ lục ghi có người tới hỏi ngài Triệu Châu: Con chó có Phật tánh không? Ngài đáp: Có. Người đó liền bẻ lại: Đã có Phật tánh là sáng suốt, minh mẫn, tại sao chui vào đãy da lông lá vậy? Ngài đáp: Vì biết mà cố phạm.
Lại người khác đến hỏi: Con chó có Phật tánh không? Ngài nói không. Người đó lại bẻ: Trong kinh Phật dạy tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, tại sao riêng con chó không có Phật tánh? Ngài đáp: Vì nghiệp thức che đậy. Nếu về giáo, tôi giảng rõ những lời này cho quí Phật tử nghe hiểu và tu. Nhưng về Thiền chỉ dùng hai chữ có không, chớ không dẫn lời bẻ lại của người hỏi và lời giải thích của ngài Triệu Châu. Hỏi con chó có Phật tánh không? Đáp không. Những vị tu về thoại đầu chỉ khán chữ không thôi. Lại đưa thêm câu hỏi con chó có Phật tánh không? Đáp: Có. Đây chỉ dùng hai chữ có không.
Niêm: “Lấy hai so một”, tức một là Phật tánh, hai là có và không.
Tụng:
Hỏi ngay ở trước, đáp có không,
Bảo thẳng ngay lời dứt nhóm ngông.
Một đời tự phụ người tài giỏi,
Thế ấy vẫn là chẳng trượng phu.
Người đến tham vấn ngài Triệu Châu, thấy con chó nằm một bên liền chỉ con chó hỏi: Con chó có Phật tánh không? Ngay đó trả lời hoặc có hoặc không. Sở dĩ khi Ngài đáp có, khi đáp không là cốt để ngay lời nói chỉ thẳng cho người si mê biết hầu dẹp sự ngông cuồng chấp có chấp không. Hiện nay đa số chúng ta đều mắc bệnh này, hỏi điều gì đều muốn xác định có hoặc không, nên các Thiền sư dùng phương tiện phá chấp cho chúng ta. Hai câu sau của bài tụng là phê bình ngài Triệu Châu. Trong các Thiền sư đời Đường ai cũng nể Ngài là người lanh lợi nhất, nhưng vẫn còn đáp có, đáp không là làm cho người nghe bị kẹt, như vậy chưa phải trượng phu. Nhưng đây là vì Ngài phá chấp chớ không phải chỉ thẳng.
24. Cử: Triệu Châu nói: Chỗ có Phật chẳng trụ, chỗ không Phật chạy qua gấp.
Niêm: Nước đến thành ao, roi va lằn nổi.
Tụng: Chỗ Phật có không cả hai quên,
Lời này xem lại chưa được toàn.
Sau rốt cầm hoa đưa trở lại,
Chẳng rời tấc bước đến Tây thiên.
Đối với người tu, chỗ có Phật phải nương ở, chỗ không Phật phải rời bỏ đi nơi khác. Nhưng ở đây ngài Triệu Châu nói: “Chỗ có Phật chẳng trụ, chỗ không Phật chạy qua gấp.” Như vậy trọng tâm câu này ở chỗ có Phật và không Phật, cũng là hai bên có và không.
Niêm: “Nước đến thành ao, roi va lằn nổi.”
Nước chảy đọng lại chỗ nào thì nơi đó thành ao hồ. Roi đánh vào da thịt liền nổi lằn. Lời niêm muốn chỉ rõ mỗi khi chúng ta nói có nói không là còn thuộc về duyên, chưa phải là chỗ cứu kính, như duyên nước dồn thành ao hồ, duyên roi đánh vào mình thì nổi lằn.
Tụng:
Chỗ Phật có không cả hai quên,
Lời này xem lại chưa được toàn.
Sau rốt cầm hoa đưa trở lại,
Chẳng rời tấc bước đến Tây thiên.
Chỗ có Phật, chỗ không Phật, hai nơi đó phải vượt qua đừng dính mắc. Lời nói như thế là hay nhưng thật chưa hoàn toàn. Muốn hoàn toàn phải “sau rốt cầm hoa đưa trở lại”, tức là mượn hình ảnh Phật đưa cành hoa cho Tổ Ca-diếp, chỉ cần nhìn cành hoa là thấy được cái chân thật. “Chẳng rời tấc bước đến Tây thiên”, Tây thiên ở bên cạnh chúng ta, không cần tìm kiếm đâu xa. Thiền tông đời Trần hơi nặng về về câu “Tứ mục tương cố” tức là bốn mắt nhìn nhau. Khi đức Phật ở hội Linh Sơn đưa cành hoa lên, Ngài dùng mắt nhìn khắp đại chúng, nhìn đến ngài Ca-diếp, ngài Ca-diếp nhìn Phật mỉm cười. Cười đó là ngộ đạo. Như vậy gọi là bốn mắt nhìn nhau cảm thông trên phương diện đạo đức, cảm thông được muốn chỉ cái gì. Tất cả chúng ta tìm nơi có Phật, nơi không Phật, đó là tìm kiếm bên ngoài, ngay nơi mình có sẵn Phật, Phật đó hiện rõ qua cái nhìn. Chỉ cần nhìn cành hoa, không cần đi bước nào vẫn tới Tây thiên. Đó là điều đặc biệt, đọc mà thấm được mới thấy rất là hay. Ngài Trần Thái Tông không giấu giếm, Ngài chỉ thẳng cho chúng ta biết.
25. Cử: Thủ Sơn đưa trúc bề nói: Bảo là trúc bề tức chạm, chẳng gọi trúc bề tức trái, hãy gọi là cái gì?
Niêm: Chớ động đến, động đến ăn ba mươi gậy.
Tụng: Trúc bề chạm, trái thật khó phân,
Ngay đó rõ ràng nhắc với người.
Tuy vốn đường bằng bụi không dấy,
Một trường bày hiện gai góc đầy.
Trúc bề là cây thước bằng tre, khoảng chừng ba tấc. Ở Trung Hoa các Thiền sư hay để cây thước tre đó trên bàn, và thường dùng mỗi khi có ai đến tham vấn hoặc trong buổi nói chuyện với chúng.
“Ngài Thủ Sơn đưa trúc bề nói: Bảo là trúc bề tức chạm, chẳng gọi trúc bề tức trái, hãy gọi là cái gì?” Nói phải thì chạm, nói không phải là trái, nói thế nào cho đúng?
Niêm: “Chớ động đến, động đến ăn ba mươi gậy.” Đưa ra hai bên, nói thế này là sai, thế kia cũng sai nên đừng động đến, động đến ăn ba mươi gậy, vậy phải hành động thế nào chớ không thể dùng ngôn ngữ đối đáp được.
Tụng:
Trúc bề chạm trái thật khó phân,
Ngay đó rõ ràng nhắc với người.
Tuy vốn đường bằng bụi không dấy,
Một trường bày hiện gai góc đầy.
Đưa trúc bề lên nói rằng gọi trúc bề thì chạm mà không gọi trúc bề là trái. Như vậy phải nói thế nào, nói hay không nói? Quí vị phải nhớ câu tứ mục tương cố, đưa lên nói ở đây, mà ý ở kia. Hiểu rồi mới thấy “ngay đó rõ ràng nhắc với người”. Đưa như thế là rõ ràng nhắc chúng ta.
Ngài Thủ Sơn là Thiền sư Tỉnh Niệm, cũng gọi là Niệm Pháp Hoa, đệ tử của ngài Phong Huyệt. Ngài rất thích tụng kinh Pháp Hoa, đi đâu cũng thầm tụng kinh này. Một hôm Sư đứng hầu, Phong Huyệt rơi nước mắt nói: Bất hạnh, đạo Lâm Tế đến ta sắp chìm lặn vậy. Sư thưa: Xem trong một chúng này đâu không có người kế thừa Hòa thượng? Phong Huyệt bảo: Người thông minh thì nhiều, kẻ thấy tánh rất ít. Sư thưa: Như con, Hòa thượng xem thế nào? Phong Huyệt bảo: Ta tuy trông mong ở ngươi đã lâu, vẫn e ngại ngươi đắm mến kinh này (Pháp Hoa) không thể buông rời. Sư thưa: Việc này có thể làm được, mong nghe yếu chỉ ấy.
Phong Huyệt thượng đường kể lại: Nơi hội Linh Sơn đức Thế Tôn đưa cành hoa sen lên rồi dùng mắt nhìn bốn phía, đến ngài Ca-diếp, ngài Ca-diếp nhìn Phật mỉm cười. Khi nói như thế ngài Phong Huyệt đưa mắt nhìn ngài Niệm Pháp Hoa, thấy ngài Phong Huyệt nhìn, bỗng dưng ngài Niệm Pháp Hoa ngộ, Ngài phủi áo đứng dậy đi, ngài Phong Huyệt ném cây gậy trở về phương trượng. Thị giả theo sau hỏi. Phong Huyệt nói: Niệm Pháp Hoa đã hội. Như vậy ngài Thủ Sơn thấy được cái gì? Phải chăng là Tứ mục tương cố. Thế nên Ngài dùng phương tiện đưa trúc bề lên là muốn chỉ tứ mục tương cố nhưng Ngài khéo dùng: nói trúc bề thì chạm, không nói trúc bề thì trái, hãy gọi là cái gì? Chúng ta kẹt trong câu nói, cho là Ngài nói khó hiểu mà không ngờ chỗ Ngài muốn chỉ, muốn nhắc: “Ngay đó rõ ràng nhắc với người.”
“Tuy vốn đường bằng bụi không dấy” là chỉ thẳng, nhưng: “một trường bày hiện gai góc đầy”, tại sao? Vì nói là chạm, là trái làm cho người nghe không có hướng để tìm kiếm, không có mối manh để phăng ra, nên nói “đầy gai góc”!
26. Cử: Tăng hỏi Động Sơn (Thủ Sơ): Thế nào là Phật? Sơn đáp: Trên vách ba cân gai.
Niêm: Gọi một vật lại chẳng trúng.
Tụng: Hỏi Phật thế nào, nói đáp anh,
Động Sơn trên vách gai mấy cân.
Tuy nhiên không có phong trần dính,
Cũng vẫn còn đem cảnh chỉ người.
Động Sơn là ngài Động Sơn Thủ Sơ. Động Sơn Tổ tông Tào Động là Thiền sư Lương Giới. Ngài Thủ Sơ hiệu là Sùng Tuệ, cũng ở tại Động Sơn, đệ tử của Thiền sư Vân Môn. Tăng hỏi Động Sơn: Thế nào là Phật? Sơn đáp: Trên vách ba cân gai. Hỏi thế nào là Phật, thấy trên vách đang treo khoanh gai ba cân nên nói trên vách ba cân gai.
Niêm: “Gọi một vật lại chẳng trúng.” Gọi một vật chẳng trúng, huống là ba cân gai!
Tụng:
Hỏi Phật thế nào, nói đáp anh,
Động Sơn trên vách gai mấy cân.
Tuy nhiên không có phong trần dính,
Cũng vẫn còn đem cảnh chỉ người.
“Tuy nhiên không có phong trần dính”, tức là câu đáp “trên vách ba cân gai” không có dính mắc một chút ý niệm, không còn chỗ để khởi nghĩ, nhưng “cũng vẫn còn đem cảnh chỉ người”, còn chỉ ba cân gai đó cũng là chỉ cảnh.
27. Cử: Tăng hỏi Hòa thượng Hiện Tử: Thế nào là ý Tây sang? Hiện Tử đáp: Mâm rượu trước bàn thần.
Niêm: Nếu chẳng phải sư tử con, đâu khỏi chạy theo khối đất lăn.
Tụng: Chặt đứt cội nguồn không chỗ nương,
Ở đây nhắc lại để anh tường.
Nếu bảo trước thần là Tổ ý,
Khác nào kẻ gọi khố là quần.
Câu “thế nào là ý Tây sang”, trong nhà Thiền hỏi rất nhiều. Nói đủ câu là: thế nào là ý Tổ sư từ Tây sang, tức là Tổ Đạt-ma từ Ấn Độ sang Trung Hoa là ý gì, nghĩa là muốn thấy được ý chỉ Tổ Đạt-ma mang đến cho người Trung Hoa. Câu này các Thiền sư đáp mỗi vị một cách, có vị đáp có vị không đáp, như ngài Lâm Tế khi được hỏi câu này Ngài bảo: Đem tọa cụ lại cho ta. Người hỏi đem tọa cụ lại, Ngài liền đánh.
Hiện là con sò, con hến. Vị Thiền sư này không giữ trai giới, Ngài ở gần bờ biển, sáng đi kiếm sò hến ăn, sống qua ngày, tối vào đình ngủ, không ai biết tên, mọi người gọi Ngài là Hiện Tử. Nghe đồn về vị Hòa thượng kỳ lạ này, ngài Lâm Tế mới đến thử, bất chợt chụp vai Ngài hỏi: Thế nào là ý Tây sang? Hiện Tử đáp: Mâm rượu trước bàn thần. Qua câu đáp, ngài Lâm Tế buông ra, Ngài nhận rằng đây quả thật là một Thiền sư.
Niêm: “Nếu chẳng phải sư tử con, đâu khỏi chạy theo khối đất lăn.” Khi hỏi thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Độ sang, chúng ta hoặc nói thế này hoặc nói thế khác, nhưng Ngài chỉ nói “mâm rượu trước bàn thần”. Câu này là câu nói của sư tử con chớ không phải thường.
Tụng:
Chặt đứt cội nguồn không chỗ nương,
Ở đây nhắc lại để anh tường.
Nếu bảo trước thần là Tổ ý,
Khác nào kẻ gọi khố là quần.
Câu đáp của ngài Hiện Tử là câu nói chặt hết cội nguồn, không còn manh mối để suy nghĩ, không còn lý do để bám, xét. Chặt đứt cội nguồn để nhắc cho mọi người thấy được ý Tổ sư từ Ấn Độ sang là chỗ chưa có niệm suy nghĩ phân biệt dấy lên. Mới nghe câu đáp, chúng ta thấy như không có chỉ nhưng thật là chỉ rất tường tận. Nếu khi đó lại suy gẫm về mâm rượu trước bàn thần là ý Tổ sư thì khác nào kẻ nói khố là quần, nói như thế là sai vì khố và quần khác nhau.
28. Cử: Quốc sư Vô Nghiệp nói: Nếu niệm phàm thánh bằng đầu sợi lông chưa hết, chưa khỏi vào bụng ngựa thai lừa. Hòa thượng Bạch Vân Đoan nói: Giả sử niệm phàm thánh bằng đầu sợi lông hết, cũng chưa khỏi vào bụng ngựa thai lừa.
Niêm: Đốt non cần cọp chạy, đập cỏ cốt rắn kinh.
Tụng: Lời này xét lại chí khí khinh,
Đập cỏ cốt là bọn rắn kinh.
Nếu người rành lối Trường An ấy,
Buông thõng tay đi khỏi hỏi trình.
“Quốc sư Vô Nghiệp nói: Nếu niệm phàm thánh bằng đầu sợi lông chưa hết, chưa khỏi vào bụng ngựa thai lừa. Hòa thượng Bạch Vân Đoan nói: Giả sử niệm phàm thánh bằng đầu sợi lông hết, cũng chưa khỏi vào bụng ngựa thai lừa.”
Hai vị đều là Thiền sư mà lại nói trái nhau. Đó là tinh thần của cách đối đáp trong nhà Thiền. Nhà Thiền gọi hoạt cú tức là câu sống. Như khi hỏi thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Độ sang thì đáp “mâm rượu trước bàn thần”, hoặc hỏi thế nào là Phật thì đáp “ba cân gai”. Tại sao? Thẳng đó nhận ra, thấy được nơi mình. Câu sống làm cho người tỉnh liền, nếu không nhận ra cũng được an vì không biết gì thêm.
Nếu hỏi thế nào là Phật, lại đáp Phật là giác ngộ, câu đó gọi là câu chết (tử cú) vì làm cho người nghe suy nghĩ về giác ngộ tức là đi sâu vào cửa tử của vọng tưởng. Vọng tưởng là cửa chết.
Lại còn một lối trả lời làm cho người nghi, lối nói đó cũng khéo. Do nghi nên ôm ấp mãi một ngày nào sẽ ngộ, đó cũng là một lối đặc biệt. Tóm lại có ba câu nói:
1. Câu nói chết người làm cho niệm dứt bặt, đó là một lối đặc biệt.
2. Câu nói để người nghi ôm ấp mãi, không giải quyết được, đó cũng là hay.
3. Câu nói thẳng để người nghe hiểu, gọi là dở. Nhưng thời này người ta chấp nhận dở nên phải nói dở, dù sao có còn hơn không.
Thiền sư Vô Nghiệp là đệ tử của Mã Tổ Đạo Nhất. Ai đến hỏi câu gì cũng mặc, Ngài chỉ đáp một câu: Chớ vọng tưởng. Như vậy câu chớ vọng tưởng đã nói hết ý nghĩa của sự tu, nhưng nói trắng quá. Nay Ngài lại nói: Nếu người nào còn một niệm phân biệt đây là phàm kia là thánh, dù nhỏ bằng đầu sợi lông, người đó cũng chưa ra khỏi bụng ngựa thai lừa. Nói thế cũng hơi quá đáng. Đó là chưa rời khỏi sanh tử vì còn niệm thì còn sanh tử.
Nhưng Hòa thượng Bạch Vân Thủ Đoan lại nói: Giả sử một niệm phàm thánh bằng đầu sợi lông hết, cũng chưa khỏi vào bụng ngựa thai lừa. Ai đúng? Ngài Bạch Vân Thủ Đoan nói câu này để làm gì?
Niêm: “Đốt non cần cọp chạy, đập cỏ cốt rắn kinh.”
Câu niêm quá rõ. Vì sợ cọp nên những người đi rừng đốt lửa, cọp sợ không dám lại gần. Như vậy đốt lửa không phải vì lửa cháy, mà vì cho cọp sợ. Cũng như ban đêm, trên những con đường rậm rạp cỏ phủ, muốn cho rắn rít chạy trước khi mình bước chân tới, chúng ta cầm gậy quơ trên ngọn cỏ, đập cỏ không phải vì cỏ mà là để cho rắn chạy. Như vậy việc làm ở đây mà mục đích ở kia.
Tụng:
Lời này xét lại chí khí khinh,
Đập cỏ cốt là bọn rắn kinh.
Nếu người rành lối Trường An ấy,
Buông thõng tay đi khỏi hỏi trình.
Bài tụng này nhắm vào câu nói của ngài Bạch Vân Thủ Đoan: Giả sử không còn một niệm phàm thánh bằng đầu sợi lông cũng chưa ra khỏi bụng ngựa thai lừa. Câu này mục đích để phá chấp của người nghe câu nói của Quốc sư Vô Nghiệp, cho không có một niệm là cứu kính, nhưng còn thấy không tức là còn thấy có, nên còn kẹt trong có không, chưa phải là cứu kính. Thế nên câu này không phải là giá trị thật, là “chí khí khinh”. Chẳng qua là đập cỏ để rắn sợ chớ không phải chỉ lẽ thật. Nếu người thật rành đường về Trường An tức là người đã ngộ đạo rồi thì buông thõng tay mà đi không nghi ngờ, không cần thưa hỏi. Nếu nghe mà khởi nghi tức chưa phải người có khả năng rành đường về Trường An.
Đến đây tôi dẫn câu chuyện ngài Đại Mai Pháp Thường cho quí vị thấy. Ngài đến học với Mã Tổ một thời gian rồi về ở núi Đại Mai. Mã Tổ nghi không biết Ngài ngộ đạo chưa, mới sai một đệ tử khá tới thử xem. Người đó gặp ngài Đại Mai mới hỏi: Ông ở chỗ Mã Tổ được cái gì mà về ở núi? Ngài đáp: Tôi nghe Mã Tổ nói tức tâm tức Phật, tôi liền nhận được rồi về ở núi. Người kia liền nói: Nay Mã Tổ không nói tức tâm tức Phật, mà nói phi tâm phi Phật. Nếu là người chưa biết đường về Trường An, nghe câu nói sau liền nghi là khi trước mình hiểu chưa đúng vì sau này thầy nói khác. Nhưng ngài Đại Mai nói: Mặc ông già nói gì thì nói, tôi chỉ biết tức tâm tức Phật. Người kia về thưa lại Mã Tổ, Mã Tổ ở giữa đại chúng nói: trái mai đã chín, tức là ngài Pháp Thường thật ngộ. Như vậy người ngộ đạo dù ai nói đông nói tây gì cũng không lay chuyển được. Trái lại mới nghe nói thì tin, khi nghe ai nói khác lại khởi nghi, là chưa thật ngộ. Thế nên ngài Trần Thái Tông mới nói: “nếu người rành lối Trường An ấy, buông thõng tay đi khỏi hỏi trình”, vì đâu còn nghi ngờ mà phải hỏi.
29. Cử: Huyền Sa dạy chúng nói: Các bậc Lão túc khắp nơi đều bảo: “Tiếp vật lợi sanh.” Chợt gặp ba hạng người bệnh lại, làm sao tiếp? Người bệnh mù, giơ chùy dựng phất họ chẳng thấy. Người bệnh điếc, nói năng tam-muội họ không nghe. Người bệnh câm, dạy họ nói, nói không được.
Niêm: Khát uống đói ăn, lạnh mặc nóng quạt.
Tụng: Buồn thì ủ rũ, vui tươi cười,
Mũi dọc mày ngang chẳng khác người.
Đói khát lạnh nồng tùy chỗ được,
Đâu nên bất chợt lại sanh nghi.
“Huyền Sa dạy chúng nói: Các bậc Lão túc khắp nơi đều bảo: Tiếp vật lợi sanh. Chợt gặp ba hạng người bệnh lại, làm sao tiếp? Người bệnh mù, giơ chùy dựng phất họ chẳng thấy. Người bệnh điếc, nói năng tam-muội họ không nghe. Người bệnh câm, dạy họ nói, nói không được.” Như vậy làm sao độ ba hạng đó?
Niêm: Khát uống, đói ăn, lạnh mặc, nóng quạt.
Lời niêm có dính với những bệnh mù điếc câm ở trên không?
Tụng:
Buồn thì ủ rũ, vui tươi cười,
Mũi dọc mày ngang chẳng khác người.
Đói khát lạnh nồng tùy chỗ được,
Đâu nên bất chợt lại sanh nghi.
Dù cho không hiện ở mắt, tai và miệng nhưng đâu phải là thiếu vắng, đâu phải có mắt, tai, miệng mới có cái đó. Tuy ba cơ quan không hiển lộ được cái sáng nhưng nơi mình có thiếu nó bao giờ, nên mới dùng các chữ khát uống, đói ăn, lạnh mặc, nóng quạt.
30. Cử: Thụy Nham thường gọi: Ông chủ nhân, tỉnh tỉnh đi, về sau chớ bị người lừa gạt.
Niêm: Khóc đến máu tuôn không chỗ dụng,
Chi bằng ngậm miệng qua xuân tàn.
Tụng: Thụy Nham thường gọi chủ nhân ông,
Lược giỏi cơ sâu cũng chẳng hùng.
Nếu quả thế gian tướng vô địch,
Đợi gì gươm giáo mới là hưng.
Thụy Nham là Thiền sư Sư Nhan ở núi Thụy Nham, ngồi một mình thỉnh thoảng tự gọi ông chủ nhân rồi tự dạ, tự nhắc: Tỉnh tỉnh đi, về sau chớ để người lừa gạt. Thấy như người điên nhưng thật sự chúng ta có bệnh quên, ngồi một lúc là bị ma ngủ hay vọng tưởng gạt, nên nhắc tỉnh tỉnh chớ bị người lừa. Đó là phương tiện để Ngài tự cảnh giác. Hiện nay ngồi lâu bị người lừa dẫn đi chơi thì có các vị giám thiền cầm gậy đánh cho chạy về. Đánh là để không bị người lừa dẫn đi bằng vọng tưởng hay giấc mộng. Có người ngồi một lúc mộng thấy việc này việc kia, đó là đi khá xa nên nhờ gậy đánh liền giựt mình tỉnh lại. Hiểu như thế mới mang ơn người vác gậy đi tuần, nếu không sẽ bực tức khi bị đánh giựt mình.
Niêm:
Khóc đến máu tuôn không chỗ dụng,
Chi bằng ngậm miệng qua xuân tàn.
Khóc đến máu tuôn nhưng cũng không dùng được, chi bằng làm thinh để qua mùa xuân. Hành động của ngài Thụy Nham là hành động thiết tha đối với sự tu hành, nhưng còn gọi, nói chủ khách v.v... thì chưa phải là tuyệt vời, nên ngài Trần Thái Tông hơi chê.
Tụng:
Thụy Nham thường gọi chủ nhân ông,
Lược giỏi cơ sâu cũng chẳng hùng.
Tuy có mưu lược, có cơ sâu nhưng cũng chưa phải hùng.
Nếu quả thế gian tướng vô địch,
Đợi gì gươm giáo mới là hưng.
Nếu là tướng vô địch thì không cần gươm giáo, không cần phải kêu gọi chi cho ồn. Tuy bị chê như vậy, nhưng ngài Thụy Nham sau này cũng là một vị Tổ. Vì mỗi người tự biết bệnh mình, nếu ngồi lâu dễ gục hoặc dễ chạy theo vọng tưởng thì phải tự gọi cho tỉnh. Như vậy đối với ngài Thụy Nham là có lợi, nhưng so sánh với những Thiền sư khác thì thấy hơi ồn, còn nghiêng về hình thức.
31. Cử: Tam Thánh nói: Tôi gặp người liền ra, ra thì chẳng vì người. Hưng Hóa nói: Tôi gặp người thì chẳng ra, ra thì vì người.
Niêm: Một con rùa mù, nửa cặp trạnh què.
Tụng: Gặp khát tức thì uống nước ngay,
Nói ăn ngày trọn bụng đói chay.
Hai bên gươm bén thôi niêm kín,
Khi khác trẻ con miệng họa này.
Tam Thánh là Thiền sư Huệ Nhiên. Hưng Hóa là Thiền sư Tồn Tương. Hai vị là đệ tử lớn của ngài Lâm Tế. Một vị nói: Tôi gặp người liền ra, ra thì chẳng vì người, một vị lại nói: Tôi gặp người thì chẳng ra, ra thì vì người. Ai nói đúng?
Niêm: “Một con rùa mù, nửa cặp trạnh què.” Trạnh là con ba ba. Nửa cặp cũng là một con. Như vậy một bên là rùa mù, một bên là trạnh què. Vì ra hoặc không ra, vì người hoặc không vì người đều là một bên, chưa phải là cứu kính, nên ngài Trần Thái Tông mới bình: Một con rùa mù, nửa cặp trạnh què.
Tụng:
Gặp khát tức thì uống nước ngay,
Nói ăn ngày trọn bụng đói chay.
Hai bên gươm bén thôi niêm kín,
Khi khác trẻ con miệng họa này.
Đói thì ăn, khát thì uống, nói làm chi ồn cả ngày mà bụng vẫn đói. Ý Ngài trách là nói “vì người không vì người, ra không ra” chi cho nhiều.
“Hai bên gươm bén thôi niêm kín”, nghĩa là hai vị dùng thuật nói mâu thuẫn nhau giống như hai cây gươm bén niêm kín.
“Khi khác trẻ con miệng họa này”, e khi khác trẻ con liếm nhằm bị đứt miệng, đứt lưỡi. Lối nói này không cho người thấy được lẽ thật, mà chỉ là nói để cho nghi.
32. Cử: Nam Tuyền thấy Đặng Ẩn Phong đến, chỉ tịnh bình nói: Tịnh bình là cảnh, ông không được động đến cảnh.
Niêm: Nói có, nhằm chỗ nào để.
Tụng: Trong gương không nhớp luống tự chùi,
Dụng hết công phu uổng phí thôi.
Lặng lặng im im tùy chỗ thích,
Cơm xong liền đó uống chung trà.
Tịnh bình là cảnh, lại chỉ tịnh bình bảo không được động đến, vậy phải động đến cái nào? Đó là thuật kỳ đặc trong nhà Thiền. Thông thường nghe chỉ đâu chúng ta chạy theo đó là bị gạt.
Niêm: “Nói có, nhằm chỗ nào để.” Nói không được động đến thì cái đó có hay không? Nếu có thì để ở đâu?
Tụng:
Trong gương không nhớp luống tự chùi,
Dụng hết công phu uổng phí thôi.
Lặng lặng im im tùy chỗ thích,
Cơm xong liền đó uống chung trà.
Bài thơ rất là thâm thúy. Gương không nhớp, không bụi mà lau, thật là uổng công. Như vậy để mặc nó hay sao? Nghĩa là chúng ta nói lau gương là uổng công, nếu nói lau bụi thì đáng công. Hiện nay chúng ta lau gương hay lau bụi? Gương tự sáng, sở dĩ chúng ta không thấy được ánh sáng là do bụi, nay lau sạch bụi thì gương tự sáng. Cũng vậy cái chân thật nguyên là như thế, không có tu, nhưng vì bụi trần che phủ nên phải tu tức là hằng ngày lau bụi tham sân si mạn nghi..., lau sạch rồi thì gương tự sáng. Nếu gương không sáng dù lau hết bụi cũng vẫn không sáng. Bản chất nó là sáng nên nói lau là vô ích.
“Dụng hết công phu uổng phí thôi.” Dù dùng bao nhiêu công phu để chùi gương cũng là uổng phí, nhưng nếu dụng công chùi bụi thì rất đáng công.
“Lặng lặng im im tùy chỗ thích”, nó im nó lặng, tùy duyên tùy cảnh nó hưởng ứng. Hưởng ứng bằng cách nào? “Cơm xong liền đó uống chung trà.” Ăn cơm xong rồi uống trà, việc đó rất bình thường, nhưng chính việc bình thường là cái hiện rõ ràng của tấm gương.
33. Cử: Thạch Đầu nói: Thế ấy chẳng được, chẳng thế ấy cũng chẳng được, thế ấy chẳng thế ấy thảy chẳng được.
Niêm: Các hạnh vô thường, tất cả đều khổ.
Tụng: Câu nói hay khéo đem đến ông,
Tạm làm mây trắng che cửa động.
Dù cho toàn được mười phần đúng,
Vẫn ở giữa đường muôn dặm trông.
“Thế ấy chẳng được, chẳng thế ấy cũng chẳng được, thế ấy chẳng thế ấy thảy chẳng được.” Nói như vậy nghe khó hiểu làm sao! Thế ấy là khẳng định, chẳng thế ấy là phủ định, thế ấy chẳng thế ấy là khẳng và phủ định, thảy đều không được. Như vậy tất cả sự vật trên thế gian đứng về mặt khẳng định, hoặc phủ định, hoặc gồm cả hai đều không đúng. Tại sao?
Niêm: “Các hạnh vô thường, tất cả đều khổ.” Khẳng định, phủ định hay chung cả hai đều là các hạnh, nên đều là khổ.
Tụng:
Câu nói hay khéo đem đến ông,
Tạm làm mây trắng che cửa động.
Câu nói cho ông nghe dù hay dù khéo chẳng khác nào mây trắng che cửa động. Mây che cửa động, bầy chim muốn về tổ không biết đường vào, cũng như lời nói hay khéo phủ mờ chỗ chân thật.
Dù cho toàn được mười phần đúng,
Vẫn ở giữa đường muôn dặm trông.
Cả ba câu khẳng định, phủ định hoặc gồm cả hai, dầu được dùng đủ cũng còn ở giữa đường, chưa đến nhà, nên ngài Thạch Đầu bảo cả ba đều không được. Hiểu như thế mới thấy được ý người xưa.
34. Cử: Tăng hỏi: Thế nào là cảnh Giáp Sơn? Sơn đáp:
Vượn ẵm con về sau núi biếc,
Chim tha hoa rụng trước non xanh.
Niêm: Cây gậy tùy thân, gặp trường thì đùa.
Tụng: Giáp Sơn cảnh vắng không người đến,
Ngay đó phải nên làm những gì?
Nếu người thật được đôi mắt sáng,
Giờ ngọ mặc tình trống canh ba.
Thí dụ có người đến đây hỏi: Thế nào là cảnh Trúc Lâm?
Đó là hỏi cảnh Trúc Lâm hay hỏi cái gì? Thật ra không phải hỏi cảnh bên ngoài mà muốn hỏi cái gì nơi chúng ta, nếu diễn tả cảnh bên ngoài thì sai.
Ngài Giáp Sơn là Thiền sư Thiện Hội. Thuở trước khi còn ở Kinh Khẩu Ngài giảng cho đồ chúng ở chùa rất đông. Một hôm Ngài lên tòa, ở dưới có Thiền sư Đạo Ngô Viên Trí ngồi nghe. Có vị Tăng bước ra hỏi: Thế nào là Pháp thân? Ngài Thiện Hội đáp: Pháp thân vô tướng. Vị ấy hỏi tiếp: Thế nào là Pháp nhãn? Ngài đáp: Pháp nhãn vô tỳ (không có tỳ vết). Ở dưới ngài Đạo Ngô cười. Khi giảng xong, ngài Thiện Hội đắp y đến thưa với ngài Đạo Ngô: Bạch Hòa thượng, khi tôi đáp lời người hỏi, có chỗ nào không đúng khiến Hòa thượng cười? Ngài Đạo Ngô nói: Nếu là người giảng kinh thì Hòa thượng nói rất đúng, còn nếu là Thiền sư thì chưa có thầy. Nghe như vậy ngài Thiện Hội mới xin ngài Đạo Ngô giới thiệu cho một vị thầy. Ngài Đạo Ngô giới thiệu ngài Hoa Đình Thuyền Tử. Đang là một Giảng sư nổi tiếng mà ngài Thiện Hội từ bỏ tất cả đi tìm ngài Hoa Đình Thuyền Tử. Pháp thân vô tướng, Pháp nhãn vô tỳ đều đúng cả, nhưng tại sao ngài Đạo Ngô cười? Vì dùng tử ngữ như vậy thì biết người học chưa có thầy. Sau khi ngộ, ngài Thiện Hội trở về trụ ở Giáp Sơn, có người hỏi: Thế nào là cảnh Giáp Sơn? Ngài đáp bằng hai câu thơ:
Vượn ẵm con về sau núi biếc,
Chim tha hoa rụng trước non xanh.
Niêm: “Cây gậy tùy thân, gặp trường thì đùa.” Sẵn có cây gậy tùy thân gặp trường thì đùa không sợ té. Đó là lời khen ngài Giáp Sơn khéo, khi có người hỏi cảnh liền diễn tả cảnh cho người nghe.
Tụng:
Giáp Sơn cảnh vắng không người đến,
Ngay đó phải nên làm những gì?
Nếu người thật được đôi mắt sáng,
Giờ ngọ mặc tình trống canh ba.
Giờ ngọ mà đánh trống canh ba nghe thật trái ngược, nhưng thật người có mắt sáng thì giờ ngọ đánh trống canh ba. Tại sao? Khi Ngài diễn tả cảnh Giáp Sơn vượn bồng con về núi, chim tha hoa rụng trước non..., nếu biết thì đó là hiện tiền. Thế nên dường như tả cảnh mà đã chỉ ra cái chân thật cho người hỏi như giờ ngọ mà đánh trống canh ba tức là nói ở đây mà thấy rõ ở kia.
35. Cử: Tăng hỏi Mục Châu: Một hơi thở tụng hết một tạng kinh không? Châu đáp: Có bao nhiêu bánh đem hết lại đây.
Niêm: Buông tay đến nhà, chẳng nhọc tiến bước.
Tụng: Một hơi tự khéo tụng tạng kinh,
Vạch lá tìm cành chẳng nhọc mình,
Vô biên huyền nghĩa đều hiện rõ,
Hỏi đến Sơn tăng thảy chẳng minh.
“Tăng hỏi Mục Châu: Một hơi thở tụng hết một tạng kinh không? Châu đáp: Có bao nhiêu bánh đem hết lại đây (có chỗ nói là bánh bao).” Tức là trên bàn có bao nhiêu bánh bao đem hết lại đây, đơn giản làm sao!
Niêm: “Buông tay đến nhà, chẳng nhọc tiến bước.”
Thật là khen đáo để. Buông tay là đến nhà không cần phải nhọc đi bước vào.
Tụng:
Một hơi tự khéo tụng tạng kinh,
Vạch lá tìm cành chẳng nhọc mình,
Vô biên huyền nghĩa đều hiện rõ,
Hỏi đến Sơn tăng thảy chẳng minh.
Ngài Mục Châu là Trần Tôn Túc, hiệu Đạo Minh, là vị Thủ tọa bảo ngài Lâm Tế đi hỏi Tổ Hoàng Bá ba lần, là một tay cự phách ở hội Tổ Hoàng Bá. Khi ngài về Mục Châu có người đến hỏi: Một hơi thở tụng hết một tạng kinh không? Câu hỏi quá rắc rối. Tôi nhắc lại câu chuyện Tổ Bát-nhã được nhà vua mời dự trai tăng. Đến nơi chư Tăng siêng năng tụng kinh còn Ngài thong dong đi dạo. Vua thấy lạ mới hỏi: Sao Hòa thượng không đi tụng kinh? Ngài đáp: Ta thở ra không dính sáu trần, hít vào không kẹt ấm giới, mỗi ngày ta tụng không biết bao nhiêu bộ kinh. Như vậy nói theo cách của Ngài là một hơi thở tụng hết ba tạng kinh! Chúng ta hiện nay thở ra hít vào dính kẹt đủ điều, nếu thở ra không dính sáu trần, hít vào không kẹt ấm giới thì tự tại biết bao nhiêu! Như vậy dường như không tu mà thật tu, còn cố gắng tụng hết bộ kinh này sang bộ kinh khác, dường như tận lực tu hành nhưng rốt lại chỉ được phước, chớ thật chưa biết chuyển vô minh phiền não trở thành Bồ-đề; vì tham tụng cho hết bộ để được phước nhiều nên vẫn còn phiền não. Trái lại thở ra hít vào mà không dính kẹt gì cả, đó mới thật là tụng kinh.
Đáp câu hỏi của vị Tăng, ngài Mục Châu không nói hết, không nói không, chỉ bảo: Trên bàn có bao nhiêu bánh bao dọn ra ăn. Trả lời thấy như lạc đề nhưng chính đó là điểm hay, nếu vị Tăng biết, là thấy được bao nhiêu tạng kinh rồi. Thế nên lời niêm:
“Buông tay đến nhà, chẳng nhọc tiến bước.” Ngay đó thấy gì nói nấy, không phải suy gẫm tìm kiếm.
Tụng:
Một hơi tự khéo tụng tạng kinh,
Vạch lá tìm cành chẳng nhọc mình.
Vô biên huyền nghĩa đều hiện rõ,
Hỏi đến Sơn tăng thảy chẳng minh.
Nghĩa là không nhọc nhằn vạch lá tìm cành, mò từng chữ từng câu, nếu không còn dính mắc thì bao nhiêu huyền nghĩa đều hiện rõ. “Hỏi đến Sơn tăng thảy chẳng minh”, hỏi đến chữ nghĩa đều chẳng hiểu rõ nhưng tất cả đều đầy đủ.
36. Cử: Trong hội Lâm Tế, hai vị Thủ tọa nhà Đông nhà Tây gặp nhau đồng thời hét. Tăng hỏi: Lại có chủ khách hay không? Lâm Tế đáp: Chủ khách rõ ràng.
Niêm: Cũng là vượn trắng nói lăng xăng.
Tụng: Thánh chúa ngày nay cổ hóa phong,
Bản đồ văn phạm trọn cùng đồng.
Bờ cõi xa gần phân rành rõ,
An dân tế thế nào kể công.
“Trong hội Lâm Tế, hai vị Thủ tọa nhà Đông nhà Tây gặp nhau đồng thời hét. Tăng hỏi: Lại có chủ khách hay không? Lâm Tế đáp: Chủ khách rõ ràng.” Tông Lâm Tế hay phân chủ khách. Hai người gặp nhau hét một lượt thì ai là chủ, ai là khách?
Niêm: “Cũng là vượn trắng nói lăng xăng.”
Nghe Tổ Lâm Tế đáp chủ khách rõ ràng, nên chúng ta phăng tìm xem ai chủ ai khách. Chủ là người hay, khách là người dở, nhưng hai người hét một lượt thì làm sao phân biệt chủ khách. Nếu chúng ta cứ tìm hiểu việc đó, chẳng khác nào nghe vượn trắng nói mà suy nghĩ.
Tụng:
Thánh chúa ngày nay cổ hóa phong,
Bản đồ văn phạm trọn cùng đồng.
Vua Thánh muốn vận động người tổ chức lại phong hóa đẹp đẽ cho quê hương xứ sở thì những điều kiện như bản đồ, văn phạm... đều có trách nhiệm chung. Thánh chúa đây là chỉ ngài Lâm Tế, bản đồ văn phạm là chỉ hai ông Thủ tọa cùng hét, nên trọn cùng đồng.
Bờ cõi xa gần phân rành rõ,
An dân tế thế nào kể công.
Trong đó đã nói rõ ràng chỗ lợi ích cho chúng sanh, chỗ giáo hóa chân thật đầy đủ. Các Ngài nói nhưng chúng ta đừng phân biệt tìm hiểu, nên tuy có lợi cho chúng sanh mà không kể công. Như vậy chúng ta đừng kẹt trong lời của Tổ Lâm Tế mà phân biệt đúng hay sai, chủ hay khách.
37. Cử: Huyền Sa nói: Nếu luận việc này, ví như người chủ một thửa ruộng, đến trong một phạm vi đã bán cho các ông rồi, chỉ còn cái cây ở trung tâm vẫn thuộc về Lão tăng.
Niêm: Biển cả chẳng nạp tử thi.
Tụng: Dù người liễu ngộ ngời ngời tỏ,
Muôn lự đầu tâm hết lăng xăng,
Trong đây còn có tơ hào dấy,
Vào mắt mạt vàng lại xốn xang.
Huyền Sa là ngài Huyền Sa Sư Bị. Việc này là việc ai cũng sẵn có. Nói về việc này thì giống như thửa ruộng lớn khoảnh nào cũng bán cho các ông hết, mỗi người đều có phần, chỉ còn cây giữa trung tâm là phần của ta. Nói như thế là không có giấu giếm gì cả. Chia phần cho tất cả, ai có phần nấy, nhưng cây ở giữa là phần của Ngài, không ai được động đến là thầm chỉ cái đó ai cũng có phần, chớ không phải dành riêng cho người nào.
Niêm: “Biển cả chẳng nạp tử thi.” Những người chết trên biển sớm muộn gì sóng cũng đùa thây vào mé bờ, ý nói chỗ trong sạch không dung cái nhơ nhớp hay nói cách khác là thể không hình tướng không chấp nhận cái có tướng. Cây ở giữa thuộc về Ngài cũng là có tướng.
Tụng:
Dù người liễu ngộ ngời ngời tỏ,
Muôn lự đầu tâm hết lăng xăng,
Trong đây còn có tơ hào dấy,
Vào mắt mạt vàng lại xốn xang.
Ngài Trần Thái Tông bình rằng: Dù cho ngài Huyền Sa đã ngộ được rõ ràng, nhưng còn nói có cây hay có chỗ nào cũng là còn dính mắc, giống như mắt đang lành mạnh lại có người đem mạt vàng hay mạt ngọc để vào. Tuy mạt vàng quí nhưng mắt không thể dung được. Cũng thế dù nói những lời hay, ý đúng nhưng còn có nơi, có tướng cũng là còn kẹt.
38. Cử: Tăng hỏi Hòa thượng Tư (Hành Tư) về đại ý Phật pháp. Hòa thượng Tư đáp: Ở Lô Lăng giá gạo bao nhiêu?
Niêm: Bóng trúc quét thềm trần chẳng dấy,
Vầng trăng xuyên biển nước không tỳ.
Tụng: Lời này quả thật bậc anh linh,
Gồm hết căn cơ tiếp hữu tình.
Một hỏi, Lô Lăng gạo giá mấy,
Hoàn toàn trọn chẳng dính đồ trình.
Tăng hỏi Hòa thượng Tư “đại ý Phật pháp”.
Hòa thượng Tư tức ngài Hành Tư. Câu này ngài Lâm Tế cũng hỏi ngài Hoàng Bá. Vị Tăng này hỏi cũng tương tợ như vậy. Hòa thượng Tư hiền lành nên đáp: Ở Lô Lăng giá gạo bao nhiêu? Nếu nay có người hỏi tôi: thế nào là đại ý Phật pháp, tôi hỏi: ngoài Đà Lạt giá gạo bao nhiêu một ký, quí vị nghe có lạc đề không? Đó là hiền lành chớ còn bạo như ngài Hoàng Bá thì liền đập cho một gậy. Chính ngài Lâm Tế bị ba gậy cũng do câu hỏi này. Câu đáp hiền lành nhưng không còn chỗ để suy gẫm.
Niêm:
Bóng trúc quét thềm trần chẳng dấy,
Vầng trăng xuyên biển nước không tỳ.
Câu niêm thật hay. Chúng ta thấy vào xế trưa, những bụi trúc gần chùa rọi bóng trên thềm, gió thổi cành trúc, bóng trúc đong đưa qua lại như quét thềm chùa mà không dấy bụi. Vào đêm rằm chúng ta thấy có vầng trăng dưới đáy biển, nhưng mặt nước không có tỳ vết của vầng trăng xuyên qua vì đó chỉ là bóng mặt trăng. Như vậy bóng trúc hay bóng trăng hiện sờ sờ nhưng không có tác dụng gì thật. Cũng thế câu “ở Lô Lăng giá gạo bao nhiêu” tuy có câu nói mà không một chút dính mắc, chẳng khác nào bóng trúc bóng trăng.
Tụng:
Lời này quả thật bậc anh linh,
Gồm hết căn cơ tiếp hữu tình.
Một hỏi Lô Lăng gạo giá mấy,
Hoàn toàn trọn chẳng dính đồ trình.
Câu trả lời của ngài Hành Tư gồm tất cả căn cơ và tỏ rằng Ngài là bậc anh linh. Đáp lại vị Tăng bằng câu hỏi “Lô Lăng giá gạo bao nhiêu” thật không một dấu vết, không một chỗ dính mắc, như trăng đáy biển, như trúc quét thềm, tuy thấy mà không dính dáng. Đó là lời tán thán.
39. Cử: Tăng hỏi Thiền sư Văn-thù: Muôn pháp về một, một về chỗ nào? Văn-thù đáp: Sông Hoàng Hà chín khúc.
Niêm: Nhân khi có trăng đẹp, bất thần qua Thương Châu.
Tụng: Hoàng Hà chín khúc vì nêu ra,
Chẳng dính đồ trình tự đến nhà.
Nhiều kẻ ban ngày mở mắt ngóng,
Đâu hay chim trĩ đến Tân La.
Ở Trung Hoa có hai vị Thiền sư nổi tiếng đều ở chùa Văn-thù là ngài Tuyên Năng phái Hoàng Long và ngài Tâm Đạo phái Dương Kỳ, nên không biết chỉ vị nào.
“Muôn pháp về một, một về chỗ nào”, ý nói muôn pháp từ tâm khởi, vậy tâm về đâu. Câu này trước đã có ngài Thạch Sương hỏi ngài Qui Sơn, ngài Qui Sơn bảo: Trong gạo có sâu. Ngài Văn-thù là một Thiền sư đạt đạo nên khi vị Tăng hỏi câu trên Ngài đáp: Sông Hoàng Hà chín khúc. Sông Hoàng Hà là một con sông lớn thứ hai ở Trung Hoa, gần Bắc Kinh, dài hơn tám ngàn dặm, mỗi ngàn dặm có một khúc quanh nên gọi là sông Hoàng Hà chín khúc. Thí dụ như có ai hỏi tôi: muôn pháp về một, một về chỗ nào, tôi đáp: sông Cửu Long chín cửa, câu trả lời như thế có thú vị không? Câu nói đó để cho người nghe bặt hết những nghĩ suy. Nếu nói cho người suy nghĩ thì gạo có sâu.
Niêm: “Nhân khi có trăng đẹp, bất thần qua Thương Châu”, nghĩa là nhân đêm trăng sáng trời đẹp đi chơi một lúc lạc đến Thương Châu. Hỏi và đáp nghe như có câu hỏi, lời đáp nhưng chẳng qua là trò chơi, không có ý nghĩa để chúng ta phải tìm hiểu.
Tụng:
Hoàng Hà chín khúc vì nêu ra,
Chẳng dính đồ trình tự đến nhà.
Nhiều kẻ ban ngày mở mắt ngóng,
Đâu hay chim trĩ đến Tân La.
Nói sông Hoàng Hà chín khúc, nếu ngay đó nhận ra thì không cần đi trên đường dài mà tự đến nhà. Trái lại nếu không nhận được, cứ tìm hiểu tại sao hỏi “một về chỗ nào” lại đáp “sông Hoàng Hà chín khúc”, suy gẫm mãi điều đó thì chẳng khác nào kẻ ban ngày ngóng nhìn chim bay trong khi chim trĩ bay đến Tân La vẫn không hay. Thật là vô ích!
40. Cử: Nam Tuyền hỏi Triệu Châu: Ngươi là Sa-di có chủ hay Sa-di không chủ? Triệu Châu đáp: Có chủ. Nam Tuyền hỏi: Thế nào là chủ? Triệu Châu khoanh tay thưa: Hôm nay kính chúc Hòa thượng luôn được muôn phước.
Niêm: Co tay chuyển chùy chẳng đổi gươm,
Người khéo sử dụng đều được tiện.
Tụng: Khoanh tay Tùng Thẩm chỉ cho người,
Chẳng kẹt hai bên chủ tự phân.
Đâu phải Hoa Lam Hàn lệnh thuật,
Nào hay khéo nấu rượu Tuân tuần.
Ngài Nam Tuyền đang ngồi trên giường thiền, thấy ngài Triệu Châu đến, lúc đó ngài Triệu Châu còn là một Sa-di khoảng mười mấy tuổi, liền hỏi: Ông là Sa-di có chủ hay Sa-di không chủ? Nay nếu hỏi quí vị như vậy thì quí vị cũng đáp “có chủ”. Nhưng khi hỏi chủ ở đâu thì rất khó diễn đạt. Ngài Triệu Châu liền khoanh tay thưa: “Hôm nay kính chúc Hòa thượng luôn được muôn phước.” Có lạc đề không? Có chủ hay không chủ? Nếu không chủ ai biết nói? Không nói gì đến chủ, chỉ khoanh tay thưa một câu tầm thường mà diễn tả được Sa-di có chủ, nên ngài Nam Tuyền chấp nhận.
Niêm:
Co tay chuyển chùy chẳng đổi gươm,
Người khéo sử dụng đều được tiện.
Co tay là khoanh tay, chuyển chùy chẳng đổi gươm là cái gì có sẵn liền sử dụng, không phải đợi có gươm bén mới sử dụng được. Nghĩa là đối với người đang khai chiến, chúng ta có gì thì dùng liền cái ấy không cần phải tìm kiếm gì khác. Nếu người khéo dùng thì ngay đó đều được tiện.
Tụng:
Khoanh tay Tùng Thẩm chỉ cho người,
Chẳng kẹt hai bên chủ tự phân.
Đâu phải Hoa Lam Hàn lệnh thuật,
Nào hay khéo nấu rượu Tuân tuần.
Ngài Tùng Thẩm chỉ khoanh tay mà đã chỉ được ông chủ nhân cho người, lại không kẹt hai bên.
Tuân tuần tức là không lâu, chỉ trong giây phút thôi.
Hàn là Hàn Tương Vũ. Hoa Lam là xứ Hoa Lam.
Lệnh thuật tức là có thuật khéo nấu rượu.
“Đâu phải Hoa Lam Hàn lệnh thuật, nào hay khéo nấu rượu Tuân tuần.” Nếu không phải là Hàn Tương Vũ ở Hoa Lam thì đâu có thuật khéo chỉ trong mấy phút mà nấu được một nồi rượu. Đó là để tán thán nếu không phải ngài Triệu Châu có tài thì đâu thể ngay câu hỏi đáp lại một cách khéo léo như vậy.
41. Cử: Tăng hỏi Mộc Am: Thế nào là việc của Nạp y (tăng sĩ)? Mộc Am đáp: Dùi châm chẳng vào.
Niêm: Ngồi yên dứt mảy trần, hư không chẳng lối thông.
Tụng: Cầm thì mịn mượt, ấn thì mềm,
Trán sắt đầu đồng đụng chẳng xuyên.
Vốn thật hư không, không gián cách,
Đêm về như cũ hoa quế thu.
Nạp y là Tăng sĩ. Tăng hỏi Mộc Am: Việc của các Tăng sĩ như thế nào? Ngài Mộc Am đáp: Dùi châm chẳng vào.
Niêm: “Ngồi yên dứt mảy trần, hư không chẳng lối thông.” Ngài Trần Thái Tông khen ngài Mộc Am nói câu đó là ngồi yên mà dứt sạch không còn dính một mảy trần, như hư không không còn lối nào cho người đi.
Tụng:
Cầm thì mịn mượt, ấn thì mềm,
Trán sắt đầu đồng đụng chẳng xuyên.
Vốn thật hư không, không gián cách,
Đêm về như cũ hoa quế thu.
Việc của chư Tăng, chư Ni, hay việc của Thiền sư như thế nào? Tại sao dùi châm chẳng vào? Vì nó không phải là diện mạo có hình có tướng, làm sao dùi châm được. Chỗ đó cầm thì mịn mượt nhẹ nhàng, ấn thì mềm không khó khăn, nhưng trán sắt đầu đồng đụng chẳng xuyên, không ai chui vào được. Mỗi người tự giữ, không ai chen vào của ai được, đó là điểm kỳ đặc. Hư không không có chỗ hở nên dùi châm chẳng được. Mùa thu đêm về nghe hoa quế thơm, tức là cái đó hiện thực ở thế gian.
42. Cử: Bàng cư sĩ nói: Đây là trường thi Phật, tâm không được đậu về.
Niêm: Tháp nhạn đề tên, không dung giấy trắng.
Tụng: Áo may trăm mảnh giày cỏ xuyên,
Thi Phật trong trường đã có tên.
Nếu bảo tâm không lại ứng cử,
Chẳng ăn roi vọt cũng ăn thoi.
Câu “đây là trường thi Phật, tâm không được đậu về” là trong bài thơ của ông Bàng Long Uẩn, nghĩa là ai tâm không còn dính mắc thì được đậu.
Niêm: “Tháp nhạn đề tên, không dung giấy trắng.” Ở Trung Hoa vào đời Đường, những người thi đậu Tiến sĩ được ghi tên vào bia ở dưới tháp nhạn tại chùa Từ Ân huyện Trường An, tỉnh Thiểm Tây.
Tên được đề trên tháp nhạn, đó là khắc trong đá chớ không dùng giấy trắng, ý muốn nói “đây là trường thi Phật, tâm không được đậu về” là chỗ chưa ổn.
Tụng:
Áo may trăm mảnh giày cỏ xuyên,
Thi Phật trong trường đã có tên.
Nếu bảo tâm không lại ứng cử,
Chẳng ăn roi vọt cũng ăn thoi.
Nếu nói tâm không là đậu Phật thì không bị roi đòn cũng ăn thoi đấm. Tại sao? Vì tâm không còn cách một lớp rào: “Vô tâm du cách nhất trùng quan.” Nếu bảo đến đó là xong thì không được vì tâm không là không những niệm khởi lăng xăng, nhưng chỗ đó chưa phải là cứu kính. Khi biết không có niệm lăng xăng, nhưng cái chân thật vẫn hiện tiền thì được, còn chỉ biết cái không mà quên cái hiện tiền thì “không ăn roi vọt cũng ăn thoi”.
43. Cử: Từ Minh hỏi Chân Điểm Hung về đại ý Phật pháp. Chân đáp: Không mây sanh đỉnh núi, có trăng rơi lòng sông. Minh hét, nói: Đầu bạc răng vàng vẫn khởi kiến giải này. Chân rơi lệ, giây lâu nói: Không biết thế nào là đại ý Phật pháp? Minh đáp: Không mây sanh đỉnh núi, có trăng rơi lòng sông. Chân đại ngộ.
Niêm: Người nhân thấy thì gọi là nhân, người trí thấy thì gọi là trí.
Tụng: Kia đây đồng khảy một cung đàn,
Cần phải trao cho bạn tri âm.
Không mây, trăng có tuy đồng đấy,
Nào khác núi cao cùng nước sâu.
Dốt: Trọn ngày theo hồng trần,
Chẳng biết báu nhà mình.
Ôi: Buông tay không tựa toàn thể hiện,
Lão chài thuyền nhỏ đậu hoa lau.
Quí vị thấy lạ không? Khi hỏi thế nào là đại ý Phật pháp thì đáp được một câu rất hay: Không mây sanh đỉnh núi, có trăng rơi lòng sông. Không mà lại sanh, có lại rơi, đó là muốn nói đại ý Phật pháp không dính mắc hai bên có không. Ngài Từ Minh là một tay cừ khôi, chưa vội chấp nhận nên hét nói: Đầu bạc răng vàng vẫn khởi kiến giải này. Nếu là người thật ngộ thì khi bị nói như thế phải có một thái độ, một hành động gì để tỏ rằng câu nói của mình là không sai, nhưng ngài Chân Điểm Hung lại rơi lệ rồi hỏi: Không biết thế nào là đại ý Phật pháp? Thế là nghe người ta nói mình bắt chước nói theo chớ chưa thấy được. Vì vậy ngài Từ Minh liền lập lại: Không mây sanh đỉnh núi, có trăng rơi lòng sông. Chân đại ngộ, tức là được xác nhận nên tin chắc không còn nghi ngờ nữa. Như vậy người xưa có tài biết ai chưa đủ lòng tin thì thử, dù câu nói đúng mà vẫn bẻ lại, khi bị bẻ nếu mình hoảng hốt thì thấy là sai.
Niêm: “Người nhân thấy thì gọi là nhân, người trí thấy thì gọi là trí.”
Cùng một câu mà người chưa ngộ nói vẫn là chưa ngộ, người ngộ nói vẫn là ngộ rồi.
Tụng:
Kia đây đồng khảy một cung đàn,
Cần phải trao cho bạn tri âm.
Không mây, trăng có tuy đồng đấy,
Nào khác núi cao cùng nước sâu.
Ngài Từ Minh và Chân Điểm Hung giống như cùng khảy một cung đàn, nhưng âm ba khác nhau vì người có học đàn với người chưa học. Người hiểu và cảm thông được với mình mới đúng cùng một cung đàn nhịp nhàng với nhau. Cả hai người cùng nói một câu nhưng “nào khác núi cao cùng nước sâu”, người trên trời, người dưới vực, khác nhau chỗ ngộ và chưa ngộ.
Dốt: Trọn ngày theo hồng trần,
Chẳng biết báu nhà mình.
Ôi: Buông tay không tựa toàn thể hiện,
Lão chài thuyền nhỏ đậu hoa lau.
Kết thúc là nếu đi trong cuộc đời, buông thõng tay không dính vào sự vật thì toàn thể hiện tiền, rồi sẽ yên ổn giống như lão chài mệt mỏi đậu thuyền cạnh bờ hoa lau ngủ ngon, lòng không bận bịu.
Tóm lại, từ những lời dạy đơn giản gần gũi với Phật tử đến những lời dạy đủ tư cách một Thiền sư của vua Trần Thái Tông cho chúng ta thấy người xưa nói đến nơi, làm đến chốn, không phải như chúng ta chỉ học lóm, nói được làm không được. Tuy sống trong cảnh nhung lụa sang trọng nhưng Ngài không nhiễm không dính, nên người sau thường kết luận các vua đời Trần xem ngai vàng như dép rách, muốn từ bỏ lúc nào cũng được. Đó là điểm đặc biệt của người thật thấy đạo. Trái lại chúng ta hiện nay có chùa khang trang một chút, chùa là của bá tánh mà bỏ cũng không đành. Những lời giảng nói của ngài Trần Thái Tông có giá trị ở chỗ Ngài thấy được và làm được. Khi trở về già, Ngài về động Thái Vi ở gần vùng Hoa Lư, mở mang cho dân làm ruộng lập ấp, đồng thời Ngài tu tại đó, nhưng sử không ghi Ngài xuất gia hay còn tại gia. Những bài nói về ngũ giới, sám hối lục căn là Ngài viết lúc ở tại triều, còn những bài tụng cổ v.v... có lẽ Ngài viết lúc về già. Ở nơi yên tĩnh tu hành, Ngài thâm nhập được nên có cái nhìn sâu sắc, đúng tinh thần của một Thiền sư. Tuy là một vị vua đa đoan trăm công ngàn việc, trong thời đất nước bị ngoại xâm, mà Ngài vẫn tu được, vẫn thấy đạo. Chúng ta phải quí trọng và noi gương Ngài để tự nhắc nhở. Chúng ta đang ở trong hoàn cảnh rảnh rang, dễ dàng trăm phần, nhận lãnh vài việc nhỏ trong chùa mà than bận quá tu không được. Đó là lỗi tại ai? Đừng trách cảnh mà chỉ buồn vì mình không khéo. Đổ cho hoàn cảnh thì tìm khắp quả đất cũng không có cảnh nào như ý, chỉ chúng ta biết ứng dụng ngay trong cảnh đó, thâm nhập được đạo lý thì nơi nào cũng tu được. Đó là lời nhắc chung cho toàn chúng.
(Theo: Trần Thái Tông - Khóa Hư Lục Giảng Giải - Thích Thanh Từ - 1996)
Đạo Phật - Khóa Hư Lục – Trần Thái Tông - Astrology.vn - About us
This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.
> PHẬT HỌC - KHÓA HƯ LỤC - TRẦN THÁI TÔNG (17): NGỮ LỤC VẤN ĐÁP
> KHÓA HƯ LỤC - (16): NÓI RỘNG MỘT ĐƯỜNG HƯỚNG THƯỢNG
> KHÓA HƯ LỤC - TRẦN THÁI TÔNG (15): TỰA - KINH KIM CANG TAM MUỘI [2]
> PHẬT HỌC - KHÓA HƯ LỤC - TRẦN THÁI TÔNG (14): TỰA - BÌNH ĐẲNG SÁM HỐI
> KHÓA HƯ LỤC - (13.7-2): KHÓA LỄ SÁU THỜI SÁM HỐI - SÁM HỐI TỘI CĂN Ý