Astrology.vn - Ngài kêu gọi tất cả chúng ta phải thấy thân này là gốc khổ. Thông thường chúng ta nghĩ khổ từ nơi khác đưa lại, nhưng không biết gốc khổ từ nơi thân: Thí dụ như hiện giờ tất cả chúng ta làm lụng khó nhọc mới có cơm ăn áo mặc, vậy lo cơm áo làm việc nhọc nhằn là vì có thân, nên nói gốc khổ từ thân mà ra...
Giảng
Ngài Trần Thái Tông đối với sắc thân con người có cái nhìn thấu đáo khác hơn người phàm tục chúng ta.
“Hết thảy các người! Thân là gốc khổ, thể chất là nhân nơi nghiệp, nếu tự cho nó là thật, cũng là nhận giặc làm con.”
Đầu tiên Ngài kêu gọi tất cả chúng ta phải thấy thân này là gốc khổ. Thông thường chúng ta nghĩ khổ từ nơi khác đưa lại, nhưng không biết gốc khổ từ nơi thân: Thí dụ như hiện giờ tất cả chúng ta làm lụng khó nhọc mới có cơm ăn áo mặc, vậy lo cơm áo làm việc nhọc nhằn là vì có thân, nên nói gốc khổ từ thân mà ra, song ít ai nghĩ tới điều này!
“Thể chất là nhân nơi nghiệp” tức là thể xác này từ nơi nghiệp mà có, do nghiệp đời trước lành hay dữ, nên mang thân hiện tại khổ hay vui, chớ không phải là sự ngẫu nhiên.
“Nếu tự cho nó là thật, cũng là nhận giặc làm con.” Thân do nghiệp tạo mà chúng ta lầm tưởng là thật, đó là chúng ta nhận giặc làm con. Tại sao? Vì thân là tướng vô thường đau khổ. Nếu cho tướng vô thường đau khổ là mình thật, đó là nhận khổ làm mình, cũng như nhận giặc làm con. Điều sai lầm này hầu hết chúng ta đều mắc phải. Ai cũng quí tiếc thân, nhưng càng quí tiếc thì càng khổ, vì một ngày nào nó sẽ từ giã mình, lúc đó khổ vô cùng!
“Các ông nên chín chắn xem, chỉ sắc thân này khi chưa vào bào thai thì nơi nào được có.” Thử hỏi sắc thân chúng ta khi chưa vào thai thì nó ở đâu? Nó là cái gì? Như người ba mươi tuổi thì hỏi trước ba mươi mốt năm mình là cái gì? Ở đâu? Đều không biết! Nếu người sáu mươi tuổi chết rồi, hỏi năm sáu mươi mốt ở đâu, là cái gì? Thì nói làm sao? Như vậy trước khi chưa có, chúng ta không biết nó ở đâu, sau khi hoại rồi cũng không biết nó ra sao? Thế mà khi có nó thì bắt đầu bám giữ, bảo bọc nó, rốt cuộc càng lo bảo bọc, tạo điều kiện cho nó thỏa mãn, nó hoại càng sớm chớ không đi tới đâu!
“Bởi do niệm khởi duyên hội, năm uẩn hợp thành, thể mạo vọng sanh, hình dung giả có.” Chỗ này phải người tu sâu mới hiểu được. Tâm thể chúng ta là trong sạch, thanh tịnh, an ổn, không dao động. “Bởi do niệm khởi duyên hội năm uẩn hợp thành.” Từ niệm khởi lên, theo duyên hội hợp mới kết thành năm uẩn, niệm thiện dấy lên thì sanh cõi lành, niệm ác dấy lên thì sanh cõi ác. Vậy gốc sanh tử là do niệm khởi, nhiều người không hiểu tưởng việc sanh tử do ai áp đặt buộc mình phải nhận. Như vậy cái thân không phải tự có, gốc từ niệm khởi mà thành.
“Thể mạo vọng sanh hình dung giả có.” Hình dung tướng mạo do vọng khởi thành hình, nên là hư giả không thật. Trong nhà Phật nói khi chết nếu chúng ta khởi niệm thiện được sanh cõi lành, khởi niệm ác phải đọa đường dữ, nếu khởi niệm tịnh thì sanh về cõi tịnh. Vậy niệm khởi là duyên để sanh ở đời sau, khi gần chết niệm nào mạnh sẽ dẫn mình đi về cõi đó.
“Quên thật quên gốc, hiện giả hiện dối, hoặc nữ hoặc nam, hoặc đẹp hoặc xấu.” Quên thật quên gốc tức là quên bản thể thanh tịnh sáng suốt, rồi dấy niệm. Từ dấy niệm mới hiện ra tướng giả dối nên có thân nam thân nữ, hoặc đẹp hoặc xấu. Thế nhưng tất cả chúng ta khi mang thân nào lại bám vào thân đó cho là thật, rồi tự hào khi thấy mình đẹp, hổ thẹn khi thấy mình xấu, bao nhiêu khổ vui do đó mà sanh nên phải trầm luân mãi mãi. Thân này do niệm khởi hiện ra là tướng động, vì động nên vô thường sanh diệt. Mang thân vô thường sanh diệt mà tự hào mình đẹp mình xinh, quả thật là vô minh tăm tối.
“Trọn là buông tâm chạy đi, toàn không một bước trở về, chạy rong trên đường sanh tử, mất tuốt ‘bản lai diện mục’.” Trọn ngày chúng ta buông tâm chạy đi, tức là quên tâm thể thanh tịnh, lại rong ruổi chạy theo vọng niệm duyên hợp sáu trần. “Toàn không một bước trở về” là không có một niệm nào hướng về tâm thể thanh tịnh, suốt ngày mải duyên theo sắc, thanh, hương, vị... Sáng sớm thức dậy tìm thức ăn ngon là chạy theo vị, thích nhìn hoa đẹp là chạy theo sắc, muốn nghe lời hay là duyên theo tiếng... Như vậy chúng ta chạy theo sáu trần, không một bước trở về, không bao giờ quay lại tìm xem tâm thể thanh tịnh mình ở đâu, còn hay mất. Sáu trần là tướng vô thường sanh diệt, đuổi theo sáu trần tức là “chạy rong trên đường sanh tử”. Đi trên đường sanh tử thì “mất tuốt bản lai diện mục”. Bản lai diện mục là mặt thật ngàn thuở xưa nay, đây là chỉ tâm thể thanh tịnh chưa động, chưa bao giờ sanh diệt. Vì dấy niệm chạy theo sáu trần, tức là chạy theo cái sanh diệt nên mất đi bản lai diện mục của mình. Đến đây chúng ta thấy ngài Trần Thái Tông nếu không phải là người ngộ đạo thì không làm sao nói được những câu như thế này!
“Do đó, giương mắt nhìn bên ngoài, ai biết xoay đầu ngó lại bên trong.” Vì chúng ta chạy theo sáu trần, rong ruổi trên đường sanh tử, nên cả ngày giương mắt nhìn tướng hư dối bên ngoài, ít khi biết xoay đầu ngó lại bên trong, tức là ngó lại cái thật của chính mình.
“Khi lại, sanh là hóa sanh; nơi đến, trong mộng nói mộng.” Chúng ta có mặt trên cõi trần này đó là khi lại, “sanh là hóa sanh” tức là sự sanh do duyên hợp hóa ra chớ không có thật (không phải hóa sanh như chư thiên trên các cõi trời). Nơi đến tức là cõi chúng ta ở, “trong mộng nói mộng”, bởi vì chỗ mình đang ở đối với chúng ta là một thế giới vững chắc vô cùng, nhưng với con mắt của những vị đạt đạo, thế giới này cũng là tướng vô thường. Vì thế Phật bảo thế giới chúng ta đang ở có bốn tướng: Ban đầu mới tạo dựng là Thành, ở một thời gian lâu gọi là Trụ, rồi nó hư hoại từ từ gọi là Hoại, cho đến một ngày tan nát ra là Không. Như vậy đối với chúng ta tuổi thọ thế giới dài, tuổi thọ con người ngắn, nên thấy thế giới là lâu bền, nhưng sự thật nó cũng là giả dối tạm bợ. Chúng ta giữ thân cũng là thân mộng, giữ cảnh cũng là cảnh mộng, không có cái gì bền lâu chắc thật.
“Lăng xăng lộn xộn, vội vội vàng vàng, lấy giả làm chân, trái không đến sắc.” Cả ngày chúng ta người nào cũng lăng xăng lộn xộn! Sáng sớm vội vàng ăn một ít cơm, rồi vác cuốc đi làm, đến trưa nghe đánh kiểng vội vác cuốc ra về, tắm rửa ăn trưa, rồi vội vàng đi ngủ. Cứ như thế mà lăng xăng suốt ngày, không có lúc nào bình an tỉnh táo! Nhất là ở thế gian, sáng vừa thức dậy hấp tấp sửa soạn ăn rồi đi làm, mãn giờ ở sở gấp gấp chạy về bất kể nguy hiểm, đến nhà sửa soạn ăn và nghỉ, thức dậy lại vội vàng đi đến sở, cứ như thế lăng xăng lộn xộn, vội vội vàng vàng!
“Lấy giả làm chân, trái không đến sắc.” Mang thân giả, chấp cảnh giả, tưởng đó là thật. Trăm người như một cho rằng ta là thật, cảnh bên ta là thật, trong nhà Phật danh từ chuyên môn gọi là ngã và ngã sở, cho đó là thật nên nói “lấy giả làm chân”. “Trái không đến sắc” tức là trái với thể thanh tịnh không tướng mạo, rồi đến với hình sắc có tướng mạo. Hình sắc là duyên hợp, vô thường, duyên hợp là giả dối, vô thường là tạm có, lại cho đó là thật, nên nói là “trái không đến sắc”.
Đến phần này ngài Trần Thái Tông nói về sự trau giồi trang sức trên thân người.
“Đầu sọ khô cài hoa giắt ngọc, túi da hôi ướp xạ xông hương, cắt lụa là che đậy máu tanh, giồi son phấn át thùng phân thúi.”
“Đầu sọ khô cài hoa giắt ngọc” tức là trên đầu ai cũng là một lớp da tóc bao bọc xương sọ, nếu lột lớp da ra thì chỉ là một cái sọ khô! Thế mà trên tóc lại cài hoa giắt ngọc làm đẹp để dễ coi. “Túi da hôi ướp xạ xông hương”, vì mang túi da hôi hám nên kiếm xạ hương xông ướp cho thơm để dễ ngửi một chút, đó là cách đánh lừa thiên hạ, gạt lỗ mũi người. Nếu túi da mình thơm mùi hoa sen thì khỏi phải xông ướp xạ hương, vì nó đã tự thơm rồi. Nhưng vì túi da hôi hám nên buộc lòng phải ướp thêm hương. Thí dụ như sáng ngủ thức dậy, chúng ta phải rửa mặt súc miệng đánh răng cho sạch sẽ để bớt đi mùi hôi. Biết thân mình là một đãy da tanh hôi cho nên “cắt lụa là che đậy máu tanh”, vì máu để ra ngoài thì có mùi tanh nên phải kiếm lụa là che đậy lại cho kín đáo. “Giồi son phấn át thùng phân thúi”, thân là thùng phân thúi cần thoa son giồi phấn để che khuất cho dễ coi.
Đọc đoạn này chúng ta mới cảm nhận được tinh thần của ngài Trần Thái Tông. Trong triều đình nhất là trong thâm cung có biết bao nhiêu là cung phi mỹ nữ trang sức lộng lẫy, nào là cài hoa giắt ngọc, ướp xạ xông hương, nào là mặc lụa là giồi son phấn..., thế mà Ngài thấy tận gốc chỉ là đầu sọ khô, túi da nhớp, máu tanh hôi, thùng phân thúi, chớ không có gì là đẹp đẽ mỹ miều! Thấy hiểu như vậy Ngài có còn đắm mê những tướng giả dối đó hay không? Chắc là Ngài đã chán đã tởm lắm rồi! So lại chúng ta ngày nay lại tìm những thứ trang sức đẹp đẽ, kiếm những hương thơm để xông ướp, thật là quá mê muội!
“Trang sức như thế trọn là gốc nhớp. Không thể nơi đây tự thẹn, lại hướng trong ấy mến yêu.” Các thứ trang sức đều là để che đậy thân nhớp nhúa thôi, không có gì là quí. Biết rõ bản chất thân người dơ xấu gớm ghê như vậy phải tìm cách che đậy nó lại, sao không biết hổ thẹn, lại còn tự hào mến yêu nó nữa, thật là mê lầm quá đáng.
“Hết thảy các người! Giống hệt con rối, đều nhờ sợi tơ kéo rút, đùa đến đùa đi, cùng sanh một thứ, sau khi buông đi, thật là dáng chết.” Như con rối chúng ta cho nó nhảy múa là do kéo rút sợi dây ở bên trong, chớ thật ra nó không có múa nhảy chi hết. Nếu buông sợi dây ra thì nó đứng xuôi xị, không còn cử động nữa thật như dáng chết. Thân của chúng ta cũng giống như con rối vậy, nghĩa là thân này còn tinh thần nương tựa vào thì nó nhảy múa làm đủ động tác, đến khi tinh thần rời ra thì thể xác cứng đờ như một khúc gỗ, không có nghĩa gì. Cuộc sống lăng xăng của chúng ta chẳng qua là do duyên hợp của cơ thể, giống như cái máy, khi ấn nút thì chạy nhảy lăng xăng, khi buông nút thì dừng lại. Thân chúng ta là kết tụ cả thể xác lẫn tinh thần làm tất cả các hoạt động, khi tinh thần rời thể xác, lúc đó như khúc cây khô, không nghĩa lý gì. Thân này còn gọi là cơ thể tức là máy thân, nó hoạt động như một cái máy vậy. Thí dụ như máy xe cần có xăng nhớt mới chạy được, không đòi hỏi loại xăng nhớt hảo hạng. Máy thân của chúng ta cũng vậy. Khi bao tử trống hoạt động không nổi, lúc đó chỉ cần vài chén cơm hay một khúc bánh mì bỏ vào bao tử là máy chạy rồi, giả sử như cơm nguội hay bánh mì khô cũng được, không đòi hỏi phải có thức ăn thơm ngon bao tử mới chấp nhận. Sở dĩ chúng ta cực khổ làm thức ăn ngon đủ mùi vị là do cái lưỡi, đó chẳng qua là thỏa mãn cảm giác nhỏ mọn tầm thường, chớ không phải là điều cần thiết.
“Tự khởi muôn việc tính toán, đều do lục tặc công phá.” Chúng ta tính toán lăng xăng, tất cả đều do lục tặc công phá. Lục tặc tức là sáu căn, khi tiếp xúc với sáu trần sanh ưa thích, như mắt thích sắc đẹp, tai thích tiếng hay, mũi thích mùi thơm, lưỡi thích vị ngon v.v..., nên các lo toan tính toán hằng ngày của chúng ta đều do sáu tên giặc này phá phách không cho chúng ta được yên ổn.
“Chẳng lo già bệnh chết đến, chỉ thích sắc tài rượu thịt.” Chẳng lo già bệnh chết đến, chỉ thích đắm theo sắc đẹp, tiền bạc rượu thịt. Cả ngày chỉ lo có bao nhiêu việc đó mà quên đi cái già bệnh chết đã chờ chực một bên mình.
“Luống đua đầu lằng sừng ốc, cam chịu lợi ràng danh buộc. Trọn ngày dồn sức mong cầu, tối lại trở thành mộng tưởng.” Luống đua theo những việc tạm bợ nhỏ nhoi như đầu con lằng, con nhặng (con ruồi xanh), sừng con ốc sên. Đây là chỉ chúng ta đua chạy theo những chuyện rất tầm thường nhỏ mọn, rồi cam chịu sự buộc ràng của danh lợi chớ không có ích gì! Trọn ngày cứ mong cầu hết điều này đến điều khác, mong cầu nhiều mà chưa được toại nguyện, nên tối ngủ những điều mơ ước biến thành cảnh mộng.
“Chất chứa nghiệp dơ như giếng, chẳng biết tóc bạc như sương. Một hôm bệnh nặng trầm kha, trăm năm trọn về mộng lớn.” Nghiệp xấu chứa chất nhiều như giếng sâu bao nhiêu cũng chưa đầy, không nhớ trên đầu tóc đã bạc như sương, tức là cái già đã đến, mà chỉ nhớ tạo nghiệp thôi. Tất cả chúng ta thấy cái mê muội của con người thật quá lắm, già chết đuổi gấp bên mình mà không bao giờ thức tỉnh, chỉ tạo nghiệp mãi mãi không dừng. Đến khi gặp cơn bệnh nặng nằm liệt trên giường không thể tới lui đi đứng được nữa, mới biết “trăm năm trọn về mộng lớn”. Những tưởng tuổi thọ được trăm năm, nhưng khi sắp chết ôn lại cuộc đời giống như giấc mộng đêm qua. Những gì mình đã tạo, bao nhiêu danh lợi, bao nhiêu thân bằng quyến thuộc v.v..., khi sắp lâm chung nhớ lại đâu còn gì, chẳng qua là một giấc mộng lớn mà thôi.
“Tim gan đau đớn dường thể oán thù, thân thể ốm gầy, giống như quỉ đói. Còn muốn cầu đảo sống dai, nào biết sát sanh hại mạng. Chỉ mong biết đời sống như tùng bá, đâu ngờ thân thể ví tựa nhà xiêu.” Đây tả cơn bệnh nặng, tim gan hành hạ mình đau đớn dường như oán thù, muốn cắt bỏ nó đi. Thân thể gầy ốm nằm liệt trên giường, giống như quỉ đói. Lại đi hỏi thầy bùa thầy pháp cầu cho hết bệnh, phải làm bò làm trâu cúng thì họ sẽ trị cho. Muốn được sống dai lại còn giết hại sanh mạng, đó là điều rất trái với lẽ thật. Chỉ mong đời sống của mình bền vững lâu dài như cây tùng cây bá sẽ xanh tươi mãi mãi; đâu ngờ thân thể khi sắp tàn ví tựa nhà xiêu, chỉ một cơn gió nhẹ thổi qua cũng đủ sập rồi.
“Hồn phách tuy về cõi quỉ, thi hài vẫn còn ở nhân gian, tóc lông răng móng chưa kịp tiêu, đàm dãi máu me đều chảy trước. Rữa nát thì máu mủ chảy trào, hôi hám ắt xông trời xông đất, đen nám chẳng dám nhìn, xanh bầm thật đáng tởm.” Khi tắt thở hồn phách đi về cõi quỉ, bởi vì khi sống không tạo duyên lành, không tạo nghiệp tốt, nên khi chết phải đi vào cõi quỉ hay cõi địa ngục. Khi hồn phách đi rồi thi hài vẫn còn ở nhân gian, chất cứng như tóc lông răng móng chưa kịp tiêu, còn chất nước như đàm dãi máu me đều chảy ra trước. Nếu thân chết chưa kịp chôn thì sẽ rữa nát, máu mủ chảy trào, hôi hám xông trời xông đất, ai đi qua cũng phải bịt mũi đi mau, da đen nám chẳng dám nhìn, xanh bầm thật đáng tởm. Giả sử sắc đẹp như Tây Thi mà chết năm ba hôm chưa chôn, cũng chỉ là cái thây ma hôi thúi. Khi sống dường như thân thuộc ruột rà, lúc chết lại sợ không dám đến gần nhìn kỹ, như vậy tình nghĩa gì, chỉ là tạm bợ mà thôi.
“Chẳng luận giàu nghèo đồng vào cõi chết, hoặc để trong nhà thì giòi đục tửa sinh, hoặc ném ra đường quạ ăn chó xé. Người đời đều bịt mũi đi qua, con hiếu thì lấy chiếu mền quấn giấu.” Dù giàu hay nghèo ai ai rồi cũng chết, nếu để trong nhà thì giòi đục tửa sinh, nếu bỏ ra ngoài đường thì quạ ăn, chó xé, không được toàn thây. Mùi hôi thúi xông lên, người đi ngang chịu không nổi phải bịt mũi, con hiếu thảo thương xót kiếm mền chiếu quấn kỹ che kín lại.
“Nhặt thu hài cốt, chôn cất thịt xương. Quan quách phó cho đóm lửa ma trơi nơi hoang dã, mả mồ giao cho muôn dặm núi sông.” Khi chôn cất xong rồi thì đêm đến thấy lửa ma trơi lốm đốm nơi hoang dã, mồ mả để mặc nằm đó không ai lui tới, một năm trở lại thăm một lần, đó là hiếu đễ lắm rồi.
“Khi xưa tóc đen má ửng, ngày nay xương trắng tro đen. Khi mưa lệ rơi thì mây sầu thê thảm, lúc gió buồn thổi thì trăng sáng hắt hiu.” Đây mới ôn lại, khi xưa tóc đen nhánh má ửng hồng, ngày nay thì xương trắng tro đen, xưa nay khác nhau biết là bao nhiêu! Nấm mồ nằm giữa đồng hoang gặp lúc mưa rơi như lệ, thì mây sầu buồn thảm vô cùng, khi gió buồn thổi, thì trăng sáng hắt hiu cô quạnh. Khi sống con cháu đầy nhà, chết rồi ra nằm ngoài đồng vắng một mình, không ai lai vãng ngó ngàng, phó cho gió táp mưa sa.
> Khóa Hư Lục - Nói Rộng Sắc Thân (Links): [1] – [2] – [3]
(Theo: Trần Thái Tông - Khóa Hư Lục Giảng Giải - Thích Thanh Từ - 1996)
Đạo Phật - Khóa Hư Lục – Trần Thái Tông - Astrology.vn - About us
This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.
> PHẬT HỌC - KHÓA HƯ LỤC - TRẦN THÁI TÔNG (5): NÓI RỘNG SẮC THÂN [1]
> PHẬT HỌC - KHÓA HƯ LỤC - TRẦN THÁI TÔNG (4.4): BỐN NÚI - NÚI THỨ TƯ - TƯỚNG CHẾT
> KHÓA HƯ LỤC - TRẦN THÁI TÔNG (4.1): BỐN NÚI - NÚI THỨ NHẤT - TƯỚNG SANH
> PHẬT HỌC - KHÓA HƯ LỤC - TRẦN THÁI TÔNG (4): BỐN NÚI - TỔNG LUẬN
> PHẬT HỌC - KHÓA HƯ LỤC - TRẦN THÁI TÔNG (3.3): NĂM GIỚI - VĂN GIỚI SẮC