Astrology.vn - Bệnh càng trầm trọng mạng sắp cáo chung. Tuổi thọ mong hưởng trăm năm, thân thế trở thành giấc mộng. Thông minh trí tuệ khó trốn ngày đại hạn sắp sang. Sức mạnh oai hùng đâu chống được khi vô thường đã đến. Tường hoa nhà rộng có làm chi, ngọc đụn vàng kho rồi cũng bỏ.
NÚI THỨ TƯ LÀ TƯỚNG CHẾT. Bệnh càng trầm trọng mạng sắp cáo chung. Tuổi thọ mong hưởng trăm năm, thân thế trở thành giấc mộng. Thông minh trí tuệ khó trốn ngày đại hạn sắp sang. Sức mạnh oai hùng đâu chống được khi vô thường đã đến. Thiếp thuận vợ trinh trở thành đau thương đứt ruột; anh nhường em kính vội nên ly biệt suốt đời. Vật mình lăn đất, vỗ trán kêu trời. Tường hoa nhà rộng có làm chi, ngọc đụn vàng kho rồi cũng bỏ. Dạ đài mù tối, luống nghe gió bấc vi vu, tuyền hộ then gài, chỉ thấy mây sầu ảm đạm.
Tướng chết của con người là mùa đông trong năm. Càn khôn ứng Thái tuế tròn vòng,nhật nguyệt hướng huyền đều hội tụ. Âm tinh cực thịnh, khắp trời mưa tuyết bời bời, dương khí tan dần, nước tám đức đóng băng càng lạnh buốt.
Kệ rằng:
Cào đất đùng đùng trận gió hanh,
Lão ngư say tít, chiếc thuyền chành.
Bốn bề mù mịt mây sầm bóng,
Một dãy lô xô sóng cuộn ghềnh.
Theo lớp hạt mưa bay phấp phới,
Dồn nhau tiếng sét nổ đì đoành.
Giây lâu tan bụi, bên trời tạnh,
Trăng lặn lòng sông, đêm mấy canh?
(NGÔ TẤT TỐ)
Bão táp cuồng phong đất bụi bay,
Lão ngư say tít, chiếc thuyền lay.
Bốn bề mây phủ màu đen kịt,
Một dãy sóng gầm tiếng vang tai.
Sầm sập trận mưa ào ạt đổ,
Ì ầm xe sấm nổ vần xoay.
Tạm thời bụi lắng, chân trời sáng,
Trăng lặn lòng sông, canh mấy ai?
Giảng
Núi thứ tư là tướng chết.
“Bệnh càng trầm trọng mạng sắp cáo chung. Tuổi thọ mong hưởng trăm năm, thân thế trở thành giấc mộng.” Bệnh trầm trọng đến giờ sắp ra đi. Khi còn mạnh, ai cũng mong sống đến trăm tuổi, nên thường chúc nhau: Sống lâu trăm tuổi, nhưng làm sao được. Cơn chết sắp đến, ôn lại cuộc đời, giống như giấc mộng, tất cả những gì mình tạo dựng được, nay chỉ là một giấc mộng thôi.
“Thông minh trí tuệ khó trốn ngày đại hạn sắp sang. Sức mạnh oai hùng đâu chống được khi vô thường đã đến.” Dù thông minh trí tuệ đến đâu, tới ngày chết cũng không ai trốn khỏi. Dù anh hùng võ tướng, khi vô thường đến cũng phải bó tay không làm gì hơn.
“Thiếp thuận vợ trinh trở thành đau thương đứt ruột; anh nhường em kính vội nên ly biệt suốt đời.” Ở thế gian khi có thê thiếp trinh thuận, đến lúc ra đi lại càng đứt ruột, vì càng thương càng khổ. Nếu vợ chồng bất hòa khi đi lại ít khổ hơn. Còn anh em hòa thuận kính yêu, khi sắp đi lại càng đau đớn vì ly biệt suốt đời. Người chết đi rồi, người sống ở lại thì sao?
“Vật mình lăn đất, vỗ trán kêu trời. Tường hoa nhà rộng có làm chi, ngọc đụn vàng kho rồi cũng bỏ.” Người ở lại thì than khóc, đau khổ vô cùng, không sao tả xiết. Người ra đi thì tường hoa nhà rộng, ngọc đụn vàng kho đều bỏ lại, đâu có mang theo vật gì!
“Dạ đài mù tối, luống nghe gió bấc vi vu, tuyền hộ then gài, chỉ thấy mây sầu ảm đạm.” Một mình ra đi vào chốn dạ đài, là nơi mù tối, gọi là âm ti, chỉ nghe gió bấc lạnh lẽo thổi vi vu. Tuyền hộ then gài tức là cửa huỳnh tuyền then gài đóng chặt, không cho trở lên nữa, không ai bênh vực tiếp cứu. Lúc đó nhìn đâu cũng chỉ thấy mây sầu ảm đạm, buồn bã làm sao! Vậy mà thế nhân không lo, chỉ nghĩ chuyện sống, không bao giờ nghĩ đến cái chết...
“Tướng chết của con người là mùa đông trong năm.” Tướng chết ví như mùa đông mây sầu ảm đạm.
“Càn khôn ứng Thái Tuế tròn vòng.” Càn khôn vũ trụ ứng với sao Thái Tuế, đây chỉ là sao Mộc, xoay quanh mặt trời mười hai năm mới hết một vòng gọi là Thái Tuế. Cũng như con người sống mấy mươi năm rồi tử là một vòng, tử rồi lại sanh giống như sao đi một vòng rồi trở lại vậy.
“Nhật nguyệt hướng Huyền Hiều hội tụ.” Huyền Hiều cũng gọi là sao Huyền Hào, ở phương bắc, gồm một chòm sao như: sao Hư, sao Ngụy, sao Nữ, sao Tú. Sao Hư ở chính bắc, phương bắc màu huyền nên gọi là Huyền Hiều, hiều còn gọi là hào có nghĩa là hư hao, tức là nói ngôi sao xấu. Thế nên nói: Mặt trời mặt trăng ứng hiện, ngôi sao xấu Huyền Hiều trở về chung hợp. Vì vậy:
“Âm tinh cực thịnh, khắp trời mưa tuyết bời bời, dương khí tan dần, nước tám đức đóng băng càng lạnh buốt.” Nước tám đức là bát công đức thủy, tám đức gồm có: Một là đức trong sạch, hai là đức sanh mát, ba là đức ngọt ngào, bốn là đức mềm nhẹ, năm là đức thấm nhuần, sáu là đức an hòa, bảy là đức trừ đói khát, tám là đức nuôi lớn các căn. Câu này nói: Phần âm cực thịnh nên khắp trời mưa tuyết, khí dương tan dần nên nước tám đức bị đóng băng lạnh buốt.
Kệ rằng:
Cào đất đùng đùng trận gió hanh,
Lão ngư say tít, chiếc thuyền chành.
Bốn bề mù mịt mây sầm bóng,
Một dãy lô xô sóng cuộn ghềnh.
Theo lớp hạt mưa bay phấp phới,
Dồn nhau tiếng sét nổ đì đoành.
Giây lâu tan bụi, bên trời tạnh,
Trăng lặn lòng sông, đêm mấy canh?
Đây là bài dịch của Ngô Tất Tố rất hay nhất là câu cuối: “Trăng lặn lòng sông, đêm mấy canh?” Trong bài kệ này chúng ta có thấy nói gì về chết đâu! Chỉ diễn tả hình ảnh tượng trưng một cách bóng bẩy thôi.
Cào đất đùng đùng trận gió hanh,
Lão ngư say tít chiếc thuyền chành.
Đây nói người sắp chết giống như ngư phủ đang ở ngoài sông thả câu thả lưới xong, nằm ngủ say trên chiếc thuyền con. Bỗng một trận bão to gió mạnh đùng đùng thổi tới, thuyền của ông lắc lư chòng chành. Khi đó lại còn:
Bốn bề mù mịt mây sầm bóng,
Một dãy lô xô sóng cuộn ghềnh.
Theo lớp hạt mưa bay phấp phới,
Dồn nhau tiếng sét nổ đì đoành.
Vừa giông bão, vừa sấm sét, mưa ầm ì dồn dập tới, ông ngư phủ một mình trên chiếc thuyền con cảm nhận bao nhiêu nỗi kinh hoàng khủng khiếp. Đây mượn hình ảnh trận bão tố để diễn tả nỗi đau khổ của người sắp chết, bao nhiêu thứ hiểm nguy sợ sệt dồn dập tới, con cháu bên ngoài chỉ biết khóc thôi! Một mình mình chịu, không ai giúp được, không ai thế được cho mình! Giống như lão ngư phủ này một mình trên chiếc thuyền con chòng chành sắp lật úp, mà không ai cứu giúp, cuối cùng thì:
Giây lâu tan bụi bên trời tạnh,
Trăng lặn lòng sông, đêm mấy canh?
Khi trời tạnh nhìn lại chiếc thuyền ông câu đâu rồi? Nó chìm tận đáy sông, cũng như mặt trăng lặn xuống dòng sông. Hỏi chừng nào gặp lại ông câu? Đêm mấy canh? Tức là bao giờ mới gặp lại? Đây là câu hỏi làm cho mình đau đớn! Khi tắt thở để vào quan tài, khiêng ra đặt dưới mộ rồi, thì từ giã tất cả, không bao giờ gặp lại. Vì thế câu “trăng lặn lòng sông, đêm mấy canh” làm cho chúng tôi rất đau xót mà thích thú.
Bài kệ này dịch rất hay, nhưng có đôi chữ tôi chưa bằng lòng, tôi dịch lại như sau:
Bão táp cuồng phong đất bụi bay,
Lão ngư say tít, chiếc thuyền lay.
Bốn bề mây phủ màu đen kịt,
Một dãy sóng gầm tiếng vang tai.
Sầm sập trận mưa ào ạt đổ,
Ì ầm xe sấm nổ vần xoay.
Tạm thời bụi lắng, chân trời sáng,
Trăng lặn lòng sông, canh mấy ai?
Canh mấy rồi, hỏi thử xem ai có thể trả lời giùm!
Để kết thúc chúng ta thấy lối diễn tả bốn núi của ngài Trần Thái Tông rất hay, vừa khéo, vừa văn chương, người đọc không chán mà lại thấm nhuần giáo lý. Ngài là một ông vua cai trị muôn dân mà có thì giờ làm những bài nhắc nhở người sau như thế này, thật là một điều hiếm có, rất xứng đáng chúng ta bái phục. Hiện nay trong nhóm Phật tử, người nào làm việc nuôi bảy tám đứa con được no ấm đầy đủ là giỏi lắm rồi, đâu có thì giờ làm việc văn chương giảng dạy như vậy.
Qua cái nhìn của ngài Trần Thái Tông về cuộc đời, chúng ta biết rằng không bao giờ ngai vàng và tất cả sự giàu sang sung sướng quyến rũ được Ngài. Nhìn lại chúng ta hiện giờ ở địa vị nghèo thiếu mà cái gì bỏ cũng không đành. Còn Ngài ở ngai vàng mà không nhiễm, thật là hai bên khác nhau biết bao nhiêu! Ngài là một con người như chúng ta mà gan dạ, nhìn thấu lẽ sanh tử của cuộc đời. Chúng ta cũng là con người mà sao mê muội quá đỗi, không thấy thấu đáo như vậy. Thế nên chúng ta cố gắng bắt chước Ngài để sửa để tu, đó là điều rất cần thiết cho đời mình.
Bốn Núi-Tổng Luận > 1.Núi Thứ Nhất–Tướng Sanh > 2.Núi Thứ Hai–Tướng Già > 3.Núi Thứ Ba–Tướng Bệnh > 4.Núi Thứ Tư–Tướng Chết
(Theo: Trần Thái Tông - Khóa Hư Lục Giảng Giải - Thích Thanh Từ - 1996)
Đạo Phật - Khóa Hư Lục – Trần Thái Tông - Astrology.vn - About us
This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.
> KHÓA HƯ LỤC - TRẦN THÁI TÔNG (4.3): BỐN NÚI - NÚI THỨ BA - TƯỚNG BỆNH
> KHÓA HƯ LỤC - TRẦN THÁI TÔNG (4.2): BỐN NÚI - NÚI THỨ HAI - TƯỚNG GIÀ
> KHÓA HƯ LỤC - TRẦN THÁI TÔNG (4.1): BỐN NÚI - NÚI THỨ NHẤT - TƯỚNG SANH
> PHẬT HỌC - KHÓA HƯ LỤC - TRẦN THÁI TÔNG (4): BỐN NÚI - TỔNG LUẬN
> PHẬT HỌC - KHÓA HƯ LỤC - TRẦN THÁI TÔNG (3.5): NĂM GIỚI - VĂN GIỚI RƯỢU